“Người Việt quá tin vào may rủi”
Theo ông Sơn, người Việt quá ỉ lại vào việc được thiên nhiên ưu đãi nên sinh ra lối sống lười biếng lao động, thiếu ý thức trong khai thác tài nguyên.
"Đáng lý người Việt phải biết tìm cách làm chủ thì lại quá lệ thuộc vào trời. Trong quá trình sống hay lao động sản xuất, người Việt thường tin vào số phận, may rủi, trông chờ vào thiên nhiên, dẫn đến việc dễ chán nản, chùn bước khi gặp phải khó khăn", ông Sơn nói.
PGS Bùi Hoài Sơn, Viện trưởng Viện Văn hoá nghệ thuật quốc gia đã chỉ ra nhiều "thói hư, tật xấu" của người Việt Nam.
Vì lối lao động sản xuất chỉ biết dựa trên kinh nghiệm về thời tiết nên người Việt hiện nay thiếu ý thức nghiên cứu khoa học. Lối sống tiểu nông còn dẫn đến sự tùy tiện, manh mún, không biết lo xa, thiếu đầu óc tính toán trong kinh doanh, sản xuất chủ yếu dựa vào kinh nghiệm.
Nhiều người đề cao thói quen “ăn xổi, ở thì" và những lợi ích thiết thực trước mắt nên ít chú tâm đến lợi ích chiến lược bền lâu.
Viện trưởng Viện Văn hoá nhận định, cũng vì chịu ảnh hưởng bởi truyền thống "dùi mài kinh sử" vượt qua các kỳ thi nhằm có địa vị xã hội để hưởng vinh hoa phú quý nên nhiều người Việt học hành không đến nơi đến chốn.
Theo một số cuộc điều tra xã hội học cho thấy, số người đến thư viện đọc sách, học tập, nghiên cứu vì say mê khoa học không nhiều mà họ đến chỉ để đọc sách hay học tập ôn thi hoặc hoàn thành một chứng chỉ rồi bỏ đấy.
“Do đó, khi học tập, nghiên cứu, người Việt nặng nề với giáo điều, sao chép và thuộc lòng các lý thuyết có sẵn. Lối học đó đã trói buộc những sáng kiến, kìm hãm lối tư duy phản biện, dẫn tới thiếu tự ti, không dám vượt bỏ quá khứ”, ông khẳng định.
“Người Việt hư danh, ảo tưởng, sĩ diện”
Sĩ diện là một trong những thói xấu được PGS Bùi Hoài Sơn nêu ra. Theo ông, người Việt Nam thường giấu đi cái nghèo, cái khổ (đói cho sạch, rách cho thơm). Không mấy người Việt thú thật được nỗi cực nhọc, vất vả đã từng phải chịu đựng, từ đó dẫn đến thói kiêu căng.
Truyền thống trọng danh cũng là một đặc trưng của người Việt. Một điều tra năm 1996 cho thấy, khoảng 60% công nhân Việt Nam mong muốn con cái mình trở thành trí thức, chỉ có số ít mong muốn con cái nối tiếp sự nghiệp của mình, tức trở thành công nhân.
“Song đi liền với tính trọng danh là thói háo danh, mua danh được thể hiện rõ qua nạn bằng giả, bằng thật học giả trong xã hội hiện nay”, ông Sơn nói.
PGS Bùi Hoài Sơn phát biểu tại hội thảo "Vai trò của truyền thông trong văn hoá ứng xử hiện nay" do Bộ Văn hoá, Thể thao và du lịch phối hợp cùng Hội Nhà báo Việt Nam tổ chức.
Tính cục bộ, kéo bè cánh, chỉ vì lợi ích cá nhân, địa phương cục bộ khiến người Việt khó hoà nhập với nền kinh tế toàn cầu. Tình trạng níu kéo nhau, không muốn cho người khác hơn mình cùng thói quen ghen ghét, đố kỵ, dẫn đến việc "một người thì làm tốt, ba người thì làm tồi, bảy người thì làm hỏng".
Dẫn lại kết quả Viện Nghiên cứu xã hội Mỹ về 10 đặc điểm cơ bản của người Việt Nam, ông Sơn cho biết, người Việt cần cù lao động song để thỏa mãn nên tâm lý hưởng thụ còn nặng; mặc dù thông minh, sáng tạo nhưng chỉ có tính chất đối phó, thiếu tầm tư duy dài hạn, chủ động.
Bên cạnh đó, mặc dù khéo léo nhưng ít người cố gằng duy trì tới cùng; vừa thực tế, vừa mơ mộng nhưng lại không có ý thức nâng lên thành lý luận.
Ham học hỏi, có khả năng tiếp thu nhanh cũng là một đặc điểm nổi bật của người Việt. Tuy nhiên, người Việt lại ít khi học "đến đầu đến đuôi" nên kiến thức không hệ thống, mất căn bản. Ngoài ra, việc học tập không phải là mục tiêu tự thân của mỗi người Việt Nam, bởi khi còn nhỏ học vì gia đình, lớn lên học vì sĩ diện, vì kiếm công ăn việc làm, ít vì trí đam mê.
Mặc dù người Việt có tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái, song hầu như chỉ trong những hoàn cảnh, trường hợp khó khăn, bần hàn. Còn trong điều kiện sống tốt hơn, giàu có hơn thì tinh thần này rất ít xuất hiện.
Ngoài ra còn một số những đặc điểm khác của người Việt như xởi lởi hiếu khách song không bền; tiết kiệm song nhiều khi hoang phí vì những mục tiêu vô bổ như vì sĩ diện, khoe khoang, thích hơn đời; thích tụ tập nhưng lại thiếu tính liên kết để tạo ra sức mạnh; yêu hòa bình, nhẫn nhịn, song nhiều khi lại hiếu chiến, hiếu thắng vì những lý do tự ái, lặt vặt, đánh mất đại cục.
Viện trưởng Sơn cho rằng nếu không thẳng thắn thừa nhận những thói xấu trên và tìm giải pháp khắc phục sẽ tạo rào cản và sức ì nặng nề cho sự nghiệp phát triển đất nước.
Thúy Nga
GS. Trần Ngọc Thêm không ngần ngại gọi những giá trị mà chúng ta vẫn tự hào lâu nay – sự cần cù và hiếu học – là “huyền thoại".
" alt=""/>'Người Việt sĩ diện, khoe khoang, dễ chán nản khi gặp khó'Một vài năm qua, chỉ có một vài trường “tiên phong”, song đến năm 2021, qua thống kê, cả nước đã có khoảng hơn 60 cơ sở đào tạo sử dụng các chứng chỉ quốc tế như IELTS, TOEFL, SAT,… là tiêu chí để ưu tiên xét tuyển, xét tuyển thẳng.
Thậm chí, mùa tuyển sinh 2021 vừa qua, những trường đại học nổi tiếng có điểm chuẩn cao ‘chót vót’ như Trường Đại học Y Hà Nội, Học viện An ninh Nhân dân,… cũng lần đầu tiên “săn lùng” thí sinh giỏi ngoại ngữ.
![]() |
Không ít học sinh bày tỏ băn khoăn khi các trường đại học đang có xu hướng cắt giảm các chỉ tiêu xét tuyển bằng điểm thi tốt nghiệp THPT, thay vào đó là các chỉ tiêu xét tuyển thẳng và xét tuyển kết hợp. |
Chia sẻ với VietNamnet, Hiệu trưởng một trường THPT ở Hải Phòng cho hay, ngay tại trường mình, giáo viên nhiều môn cũng kêu vì học sinh "bỏ lơ" nhiều môn vì tập trung vào thi IELTS.
Tuy nhiên, theo vị này, cũng khó trách học sinh bởi tâm lý thi gì, tuyển sinh bằng gì thì học nấy là tâm lý chung của xã hội và là thực tế diễn ra ở nhiều nơi.
“Các trường đại học tốp đầu đương nhiên muốn tuyển những thí sinh đáp ứng năng lực công dân toàn cầu, theo xu hướng chung quốc tế. Mà trên thực tế, không phải cứ đổ tiền vào học là sẽ có kết quả IELTS cao và các em đó cũng phải có năng lực tốt.
Tôi cũng không đồng tình với cách nghĩ học sinh có chứng chỉ IELTS chỉ có giỏi ngoại ngữ. Chưa kể, các trường đại học cũng sử dụng phương thức kết hợp giữa IELTS và điểm học bạ, điểm thi tốt nghiệp THPT chứ không phải chỉ kết quả IELTS”, vị này nói.
Vị này cho rằng, việc thay đổi tính chất kỳ thi tốt nghiệp THPT dẫn đến đề ra dễ đi nhiều, nên số thí sinh có điểm 27,28 cũng nhiều lên.
“Như vậy, với các trường đại học không đủ điều kiện và không nhất thiết tổ chức kỳ thi riêng thì việc họ tăng chỉ tiêu tuyển sinh bằng xét tuyển thẳng hoặc xét tuyển kết hợp cũng là điều tất yếu”.
Cũng theo vị Hiệu trưởng này, không phải đâu xa, hiện tượng có những học sinh ngậm ngùi vì việc các trường đại học tăng chỉ tiêu xét tuyển thẳng và kết hợp như IELTS,... cũng diễn ra ở trường mình.
“Có nhiều em giỏi Toán, Vật lý, Hóa học,... nhưng không thể học ngoại ngữ.
Tuy nhiên chả bao giờ có phương thức hài lòng tất cả. Các trường đại học có quyền tự chủ và nếu mình là họ có lẽ cũng sẽ… làm giống họ thôi".
Vì thế, Hiệu trưởng này kiến nghị để giải quyết chỉ còn cách Bộ GD-ĐT ra đề thi tốt nghiệp THPT phân hóa hơn để nhiều trường đại học tiếp tục lấy đó làm căn cứ tuyển sinh.
“Nếu xây dựng đề dễ cho việc học sinh kiếm điểm 1-7 và từ 8 trở lên khó thì lúc đó may chăng các trường đại học sẽ có những điều chỉnh lại”.
Tuy nhiên, đại diện nhiều trường đại học cho rằng các ngành đào tạo hiện vẫn được chia chỉ tiêu đối với từng phương thức xét tuyển nên thí sinh giỏi thực sự vẫn hoàn toàn có cơ hội. |
Xét tuyển kết hợp IELTS là hợp lý
Ông Nguyễn Thanh Chương, Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Giao thông vận tải cho rằng cách nhìn nhận của các thí sinh như vậy là chưa đầy đủ, bởi với mỗi phương thức tuyển sinh, các trường đều chia một số chỉ tiêu nhất định.
“Ví dụ 100 chỉ tiêu, thì chia ra xét kết quả thi THPT, xét học bạ, xét IELTS. Nên trong 1 ngành, các thí sinh có thể trúng tuyển bằng các hình thức khác nhau. Do đó, dù tuyển sinh theo cách nào thì các thí sinh cũng đều có cơ hội cạnh tranh. Tuy nhiên, một lẽ đương nhiên rằng các trường như Ngoại thương, Kinh tế quốc dân… thì nhiều học sinh có nguyện vọng nên việc điểm chuẩn cao là chắc chắn”.
Hiệu trưởng một trường THPT ở Hà Nội cũng nhận định trong bối cảnh hội nhập, việc các trường đại học đề cao ngoại ngữ trong tuyển sinh cũng là điều dễ hiểu, hợp lý.
“Thực tế những học sinh đạt chứng chỉ IELTS với điểm số cao không phải là chỉ biết đến Tiếng Anh. Bởi để đạt điểm số cao các em cũng phải có hiểu biết nhất định và tôi thấy nhiều em thi tốt nghiệp THPT cũng 26, 27 điểm chứ không phải là kém cỏi. Vậy khi đặt lên bàn cân so sánh, một học sinh có điểm thi cao với một học sinh điểm thi các môn tốt nghiệp thấp hơn một chút nhưng có ngoại ngữ thì khó nói bên nào hơn”, vị này nói.
“Ngoài ra, nhóm những trường như Ngoại thương, Kinh tế quốc dân, Học viện Ngoại giao,... thì sau này khi vào trường, học sinh cần nhiều đến ngoại ngữ và Toán, chứ có cần gì nhiều đến kiến thức Vật lý, Hóa học đâu, do đó điểm xét tuyển tổ hợp Toán - Vật lý - Hóa học có cao cũng chẳng giải quyết được gì, chưa kể, giờ đây việc đạt điểm cao từ thi tốt nghiệp THPT không quá khó”.
Theo vị này, các học sinh cũng nên bỏ tư duy chạy theo thương hiệu top đầu của các trường đại học, mà quan trọng là chọn trường phù hợp với bản thân.
“Các em vẫn đang chạy theo xu hướng các trường điểm cao top đầu là Bách khoa, Ngoại thương, Kinh tế quốc dân, nhưng vào rồi, thực chất chưa chắc đã phù hợp với các em. Ví dụ không có ngoại ngữ thì các em vào các trường khác không đòi hỏi cao cái này, nhưng đâu có nghĩa là mất cơ hội vào đại học. Chưa kể học sinh vùng nông thôn cũng đã được cộng điểm ưu tiên khu vực”, vị này nói.
Với tính chất sống còn của các trường đại học trong bối cảnh tự chủ, vị này cho rằng, nếu phải mình, cũng sẽ lựa chọn hướng đi như vậy để trường đại học lấy được thí sinh phù hợp lĩnh vực đào tạo, tăng chất lượng đầu ra.
Thanh Hùng
‘Cơn sốt’ luyện thi IELTS đã có mặt ở nhiều tỉnh, thành phố, khi rất nhiều gia đình cho con luyện thi loại chứng chỉ này. Nhiều phụ huynh nhận thức ILETS là giấy thông hành để vào những trường ĐH top đầu ở Việt Nam.
" alt=""/>Lo bất bình đẳng khi xét tuyển đại học bằng IELTSTN - Thắm Nguyễn
" alt=""/>Nhan sắc của 7 người đẹp cao nhất Hoa hậu Việt Nam 2022