
 |
Bàn tính được nhắc đến trong cuốn “Bút toán chỉ nam”. Ảnh: Một bức tranh khắc gỗ lấy từ cuốn “Margarita Philosophica” của Gregor Reisch xuất bản tại Freiburg năm 1503 miêu tả một cuộc thi toán giữa nhà toán học Pythagoras dùng một dạng bàn tính và nhà toán học, triết học Boethieus dùng chữ số Ả rập mới. Nguồn: Wikipedia. |
Trong đó, cuốn Toán pháp đại thành mà Lương Thế Vinh (1441 -1496?) được coi là tác giả, được coi là cổ nhất. Những cuốn sách khác đã được biên soạn vào thế kỷ thứ 19 hoặc thậm chí vào đầu thế kỷ XX. Những cuốn sách còn lại không được nhắc tới trong chương Thư mục của Đại Việt thông sử in năm 1749 của nhà bác học Lê Quý Đôn (1726-1784?), và do đó có thể tin rằng tất cả các sách còn lại được biên soạn không sớm hơn cuối thế kỷ thứ 18.
Nội dung toán học của tất cả những sách này tương tự như các sách toán học Trung Hoa trước thời gian mà các phương pháp toán học châu Âu được các giáo sĩ Dòng Tên giới thiệu ở Trung Hoa vào đầu thế kỷ 17.
1. Bút toán chỉ nam. Tác giả Nguyễn Cẩn và được Kiều Oánh Mậu (1854-1912) hiệu đính, hiện còn hai bản in năm 1909.
Cuốn sách giải thích phương pháp tính toán phương Tây (các nhà ứng dụng toán học Việt Nam truyền thống sử dụng công cụ tính toán là que tính và bàn tính để thực hiện các tính toán số học), nhưng thực ra nó bao gồm một loạt các chủ đề khá rộng đặc trưng của Toán học Trung Hoa và Toán học Việt Nam truyền thống.
2. Chỉ minh lập thành toán pháp. Cuốn sách này do Phan Huy Khuông viết năm 1820
Cuốn sách mở đầu bằng một hình vẽ bàn tính tái tạo chính xác hình ảnh có trong cuốn sách Toán pháp thống tông của nhà toán học Trung Hoa Trình Đại Vị. Tiếp theo là bảng các lũy thừa của 10, đơn vị tiền, đơn vị đo độ dài, khối lượng và thể tích. Cuốn sách có một “đề thi giả định” với lời giải và các giải thích.
3. Cửu chương lập thành tính pháp. Đây là cuốn sách toán in của Việt Nam sớm nhất hiện tồn.
Cuốn sách tương đối mỏng được viết một phần bằng chữ Nôm và một phần bằng chữ Trung Hoa truyền thống. Cuốn sách được cho là do Phạm Hữu Chung, tên chữ là Phúc, viết.
 |
Bìa cuốn sách Cửu chương lập thành tính pháp trong thư viện Hán Nôm (Kí hiệu: AB 53) |
Cuốn sách không được chia thành các chương và chứa các mục ngắn về các chủ đề khác nhau như bảng nhân, tính diện tích hình phẳng, phân bổ tỷ lệ và các phép toán với phân số.
Cuốn sách có các bài toán được trình bày dưới dạng truyền thống: Bài toán - Đáp số - Lời giải.
4. Cửu chương lập thành toán pháp. Vẫn còn chưa rõ tác giả và thời gian biên soạn.
Hiện tại tồn một bản viết tay năm 1899 và được lưu giữ trong Thư viện Quốc gia Việt Nam (Hà Nội). Cuốn sách giới thiệu tên của các “số lớn”, bảng nhân và tính diện tích các hình chữ nhật và hình cong.
5. Cửu chương toán pháp tên khác: Cửu chương toán pháp lập thành. Trong Danh mục của thư viện Hán-Nôm có liệt kê hai bản viết tay của tác phẩm này ghi năm 1882.
Tác phẩm bắt đầu với đề mục “Nam toán”, (toán Việt Nam) với các giải thích về các phép toán số học, bảng tên các số lớn lũy thừa của 10, và bảng nhân 9x9. Mục tiếp theo là mục “lịch sử” viết bằng chữ Nôm chứa những giải thích về các phép toán cơ bản và lịch sử có tính huyền thoại của nguồn gốc toán học Việt Nam bắt nguồn từ toán học Trung Hoa.
Các mục tiếp theo mô tả dưới dạng thơ các phương pháp toán học khác nhau, như khai căn bậc hai, đưa về mẫu số chung, các tính toán cần thiết trong đổi đơn vị đo và đơn vị tiền tệ, tính diện tích các hình phẳng, phân bổ đơn giản và phân bổ có trọng. Phần tiếp theo chứa một lượng lớn các bài toán khác nhau, trong đó có một số bài toán giải hệ phương trình, thí dụ, bài toán về số các con thỏ và con gà có tổng cộng 36 đầu và 100 chân.
6. Đại thành toán học chỉ minh. Tác giả cuốn sách là Phạm Gia Kỷ, một quan chức nhà nước (không biết năm sinh năm mất), và được Tư nghiệp Quốc Tử Giám Phạm Gia Chuyên (sinh năm 1791, đỗ tiến sĩ năm 1832) hiệu đính.
Cuốn sách lưu giữ trong thư viện Hán Nôm được viết tay cẩn thận không có bìa, tuy nhiên tên cuốn sách và tên người biên soạn ở ngay trang đầu của sách. Năm biên soạn không được chỉ rõ.
Cuốn sách chứa 20 mục nhỏ, một số mục khớp với cuốn sách kinh điển Trung Hoa Cửu chương toán thuật. Nhưng một số phần khác hé lộ phần nào sự khác biệt.
7. Đại thành toán pháp. Trang bìa của bản viết tay của cuốn sách được giữ trong thư viện Hán Nôm (Hà Nội) bị mất, và tên Cửu chương toán pháp xuất hiện ở trang thứ hai liên quan đến bảng nhân, do đó khó có thể coi là tên của cuốn sách.
Một tên khác, Đại thành toán pháp, xuất hiện ở trang 5a của bản viết tay, nhưng vẫn chưa rõ đây có phải là tên gốc của cuốn sách hay không.
Được viết bằng chữ Hán nhưng có một số đoạn viết bằng chữ Nôm giải thích một số qui tắc, cuốn sách không được chia thành các chương và có các mô tả về các phép toán số học, các đơn vị đo, và một số các bài toán tính diện tích các hình phẳng, phân bổ đơn và phân bổ có lý, tính thuế ruộng, đổi tiền, qui tắc khai căn bậc hai và bậc ba không có trong cuốn sách.
8 và 9. Lập thành toán pháp. Bản viết tay chữ Hán không có ngày tháng với tên như trên có trong thư viện Hán Nôm.
Bản này chứa phần nhập đề truyền thống về các phép toán số học và bảng nhân, sau đó là một mục dài dành cho tính toán diện tích các hình phẳng kèm theo một số hình vẽ. Phần còn lại là các bài toán dạng khác nhau.
10. Thống tông toán pháp. Bản viết tay Thống tông toán pháp không rõ thời gian biên soạn của tác giả Tạ Hữu Thường (không rõ năm sinh) được lưu giữ trong thư viện Quốc gia Hà Nội.
 |
Trang 75 của Thống tông toán pháp |
Tên cuốn sách ám chỉ rõ ràng đến cuốn Toán pháp thống tông (1592) của Trình Đại Vị. Tuy nhiên, tác giả Việt Nam đã cải biên một cách đáng kể các phần trong bản gốc Trung Hoa và thêm vào một số lớn các bài toán không tìm thấy trong bản gốc, chuyển hóa các đơn vị đo Trung Hoa sang các đơn vị đo Việt Nam, và trình bày các giải thích của mình bằng chữ Nôm.
11. Toán điền trừ cửu pháp. Bản viết tay không rõ tác giả và ngày tháng được lưu giữ trong Thư viện Hán Nôm.
Như tên của cuốn sách, tác phẩm này trình bày cách tính diện tích các hình phẳng. Văn bản được viết bằng chữ Hán, nhưng chứa các bình luận bằng chữ Nôm.
12. Toán học cách trí. Trang đầu của bản viết tay trong thư viện Hán Nôm bị mất và cuốn sách được ghi trong Danh mục Tran and Gros (1993) với tên không chính xác là Toán pháp.
Nhưng tên thật của cuốn sách này được nhắc lại ở đầu mỗi chương là Toán học cách trí Hoàng Phong Dụ gia thư chính bổn. Tên người biên soạn cuốn sách chưa rõ.
Theo bảng Mục lục, cuốn sách lúc đầu có bốn Chương và một Phụ lục nói về những vấn đề liên quan đến xây dựng.
13. Toán học để uẩn. Vì (các) trang đầu tiên của cuốn sách này bị mất nên không rõ tên tác giả.
Năm biên soạn không rõ, nhưng vì tên của triều đại vua Gia Long (1802-1820) được nhắc tới trong bản thảo, nên có thể giả thiết rằng cuốn sách được biên soạn không sớm hơn 1802.
Cuốn sách chứa 6 chương về các vấn đề sau: các phép toán số học, tính diện tích các hình phẳng, khai căn bậc hai và bậc ba, trình bày sơ lược các phương pháp tương ứng với phân loại trong cuốn Cửu chương của Trung Hoa cổ điển. Có các bài toán về xây dựng và lí thuyết toán học của nhạc.
14. Toán học tâm pháp. Trang đầu tiên của cuốn sách này trong thư viện Hán Nôm bị mất nên tên của cuốn sách này được ghi dựa trên lời nói đầu do Hoàng Phong Dụ viết vào năm 1850.
Bảng mục lục liệt kê 5 chương: các phép toán với các số, tính diện tích hình phẳng, khai căn bậc hai và bậc ba, tính toán liên quan đến xây dựng, và tính toán liên quan đến thuế đất.
15. Toán pháp. Tên chính xác của cuốn sách chưa rõ.
Tên Toán pháp được người chép hoặc thủ thư đặt cho cuốn sách với các trang đầu bị mất dựa trên nội dung của nó. Tác giả và năm biên soạn cũng không được biết.
Cuốn sách không được chia thành các chương, chứa hơn 250 bài toán dành cho các vấn đề như tính diện tích, ứng dụng của tam giác vuông, khai căn bậc hai và bậc ba, và các vấn đề khác.
16. Toán pháp đại thành. Năm biên soạn và tên của tác giả không được rõ.
Cuốn sách cùng tên đã được gán cho tác giả là Lương Thế Vinh (1441-1496?), một quan chức thời Lê (1428-1789), nhưng tác giả và năm biên soạn thực sự của cuốn sách hiện có trong thư viện Hán Nôm không được rõ, và một số phần của cuốn sách bị nghi ngờ là khó có thể đã được biên soạn vào thế kỉ thứ 15.
Các bài toán được tìm thấy trong tác phẩm liên quan tới các vấn đề phổ biến trong các cuốn sách Trung Hoa cổ. Cuốn sách cũng chứa một mục lớn và tương đối độc lập liên quan đến thuế ruộng.
Trích lược từ Tạp chí Tia sáng/ Tạ Duy Phương dịch

Nhà toán học người Việt đạt giải thưởng toán học danh giá nhất châu Âu
- Hiệp hội toán học châu Âu vừa thông báo danh sách 10 nhà toán học nhận được giải thưởng của năm nay, trong đó có GS Phan Thành Nam (hiện là GS tại ĐH Ludwig-Maximlians, Đức; cựu sinh viên ĐHQG TP.HCM).
" alt=""/>Sách toán Việt Nam hiện tồn

Chuyển đổi số: Cú hích tư duy quản lý, tổ chức đào tạo
Phóng viên: Bối cảnh mới là dịch bệnh Covid-19 đang đặt ra những cách vận hành mới cho các hoạt động của xã hội. Trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đang có những chủ trương gì để thích ứng với bối cảnh này?
Thứ trưởng Lê Quân: Chuyển đổi số trong đào tạo và quản lý đào tạo là nhiệm vụ quan trọng của giáo dục nghề nghiệp. Bộ LĐTB&XH đã xác định đào tạo trực tuyến sẽ là một phương thức được áp dụng phổ biến trong tương lai của giáo dục nghề nghiệp mà không chỉ là giải pháp tạm thời, trước mắt để ứng phó với đại dịch Covid-19.
 |
Thứ trưởng Lê Quân: Đào tạo trực tuyến là nền tảng để xây dựng xã hội học tập gắn với học tập suốt đời.Ảnh: Thuý Nga |
Chỉ đạo xuyên suốt của Bộ là phát triển hình thức đào tạo trực tuyến đối với các nội dung mô đun, môn học phù hợp để đảm bảo người học có thể tham gia học tập mọi lúc, mọi nơi. Kết quả học tập được công nhận như đối với các phương thức tổ chức đào tạo khác và có thể sử dụng để liên thông giữa các trình độ đào tạo trong giáo dục nghề nghiệp và liên thông lên các trình độ cao hơn. Đây là nền tảng để xây dựng xã hội học tập gắn với học tập suốt đời.
Thông tư 33/2018 ngày 26/12/2018 quy định về đào tạo trình độ TC, CĐ theo hình thức đào tạo từ xa, tự học có hướng dẫn, của Bộ LĐTBXH ban hành đã tạo hành lang pháp lý cho đào tạo trực tuyến, đào tạo từ xa trong đó tập trung ưu tiên:
Thứ nhất, cho phép công nhận kết quả tự học có hướng dẫn của người học. Như vậy, với rất nhiều nội dung, người học không nhất thiết phải học ở trường nhưng được công nhận nếu đã đáp ứng yêu cầu/chuẩn đầu ra. Ví dụ, một người thợ hàn đã thành thạo và có chứng chỉ hàn thì được công nhận khi theo học để có bằng trung cấp, cao đẳng nghề hàn mà không phải học lại. Hoặc nếu sinh viên đã có các chứng chỉ như tin học, ngoại ngữ... thì không cần phải học các môn học này tại trường...
Thứ hai, cho phép liên thông công nhận kết quả học tập trực tuyến trong toàn hệ thống giáo dục nghề nghiệp. Theo đó, người học có thể theo học trực tuyến một hoặc nhiều tín chỉ, modun tại mọi nơi và mọi lúc, và được công nhận tại cơ sở giáo dục nghề nghiệp ghi danh để được cấp bằng. Cơ chế này cho phép một cơ sở đào tạo trực tuyến có thể cung cấp khóa học cho sinh viên của nhiều trường trong toàn quốc; không nhất thiết trường nào cũng phải tổ chức đào tạo trực tuyến.
Thứ ba, mở ra cơ chế cho doanh nghiệp tham gia sâu vào đào tạo trực tuyến. Thông tư cho phép nhà trường được liên kết với doanh nghiệp, được thuê và sử dụng dịch vụ hạ tầng công nghệ thông tin của doanh nghiệp mà không phải đầu tư; và cho phép doanh nghiệp được tổ chức đào tạo trực tuyến, cấp chứng nhận và được công nhận liên thông với các trường cao đẳng, trung cấp.
Từ 2018, Bộ đã tập trung nâng cấp hệ thống hạ tầng công nghệ thông tin, ban hành chương trình 6 môn học chung, chỉ đạo thí điểm tổ chức đào tạo trực tuyến các môn học chung cho toàn hệ thống.
Đặc biệt, Bộ đã phối hợp với nhiều doanh nghiệp xây dựng hạ tầng đào tạo trực tuyến để cung cấp cho các trường. Hệ thống ứng dụng các công nghệ mới nhất về đào tạo trực tuyến đang được các nước phát triển sử dụng.
Ngay khi đại dịch Covid bắt đầu, Bộ đã có nhiều văn bản để chỉ đạo các trường tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản trị, quản lý nhà trường, tổ chức tuyển sinh và thực hiện đào tạo bằng hình thức trực tuyến.
Bộ cũng đã ban hành công văn số 1301/LĐTBXH-TCGDNN ngày 14/4/2020 hướng dẫn việc thực hiện quản lý, tổ chức dạy học, kiểm tra, đánh giá trong đào tạo trực tuyến.
Các cơ sở giáo dục nghề nghiệp được quyền tự chủ trong việc điều chỉnh kế hoạch, tiến độ đào tạo phù hợp với tình hình dịch bệnh kéo dài và nghiên cứu, giảm bớt các nội dung không cần thiết trong chương trình đào tạo đảm bảo mục tiêu đào tạo theo quy định; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, tuyển sinh, tổ chức đào tạo (đào tạo trực tuyến); Giao quyền cho người đứng đầu các cơ sở giáo dục nghề nghiệp xây dựng quy chế đào tạo trực tuyến trong đó xác định rõ các nội dung cần phải thực hiện như tổ chức lớp học, tổ chức dạy học, kiểm tra, đánh giá và chịu trách nhiệm về việc bảo đảm chất lượng đào tạo trực tuyến tại trường.
Đồng thời, các doanh nghiệp có hợp tác với Bộ từ trước đã vào cuộc và hỗ trợ nhiều trường tổ chức đào tạo trực tuyến thành công.
Chỉ đạo của Bộ trong tổ chức đào tạo trực tuyến giai đoạn này là: giảm mục tiêu, giảm kỳ vọng, sáng tạo và hành động. Đào tạo trực tuyến là giải pháp giúp trường vượt qua được thách thức hiện nay. Đồng thời cũng là động lực, một cú hích mạnh mẽ để các nhà trường đổi mới về tư duy quản lý, đổi mới về phương thức tổ chức đào tạo.
Đào tạo trực tuyến là giải pháp lâu dài
Phóng viên: Nhiều cơ sở xác định đây là cơ hội thúc đẩy số hóa học liệu để nhà quản lý, giáo viên và học sinh, sinh viên ứng dụng được công nghệ thông tin, linh hoạt được thời gian, không gian cho việc dạy và học ở mọi lúc, mọi nơi. Thực tế thì giải pháp này mới mang yếu tố tình thế và các bên đều khá chật vật để thích nghi. Thưa ông, những điểm nào cần phải hoàn chỉnh để các hoạt động đào tạo diễn ra bình thường?
Thứ trưởng Lê Quân: Cần nhìn thẳng thắn là dù rất cố gắng nhưng đào tạo trực tuyến trước đại dịch Covid mới chỉ được thí điểm. Tuy vậy, trong bối cảnh đại dịch, hầu hết các trường đã vào cuộc tổ chức đào tạo trực tuyến. Về kết quả vẫn còn xa mới đạt đến kỳ vọng. Thông tư 33/2018/TT-BLĐTBXH được ban hành có sự vào cuộc trực tiếp của các doanh nghiệp cung ứng giải pháp đào tạo trực tuyến. Nhà trường được tự chủ trong tổ chức triển khai đào tạo mà không phải cấp phép.
Về phía Bộ, cam kết sẽ gỡ hết các rào cản pháp lý cho các trường. Bản thân tôi đã chủ động kết nối, nắm bắt thông tin từ các hiệu trưởng và sẵn sàng chỉ đạo sửa ngay những gì vướng để tháo gỡ kịp thời nếu có kiến nghị đúng và hợp lý.
 |
Chỉ trong 10 ngày có thể vận hành ngay đào tạo trực tuyến. Ảnh: Thanh Hùng |
Thực tế trong những tháng qua, khi nhà trường hành động, với sự vào cuộc của doanh nghiệp cung ứng giải pháp, chỉ trong 10 ngày là có thể vận hành ngay đào tạo trực tuyến cho rất nhiều học phần.
Tất nhiên, chúng ta không được cầu toàn mà phải đứng trên quan điểm triển khai những nội dung dễ, thuận lợi trước. Hệ thống sẽ hoàn thiện và nâng cao chất lượng cùng với thời gian. Chính vì vậy, Bộ đã chỉ đạo các trường điều chỉnh chương trình đào tạo. Theo đó, cần cấu trúc lại các học phần theo hướng đẩy lên trước các học phần có thể tổ chức đào tạo trực tuyến ngay, giảm tải chương trình, tăng cường huấn luyện giảng viên, tăng cường liên kết để chia sẻ kinh nghiệm và học liệu...
Phóng viên: Hiện nay các cơ sở giáo dục nghề nghiệp đã đáp ứng đến đâu để bắt kịp với những thay đổi này?
Thứ trưởng Lê Quân: Rào cản lớn nhất với đào tạo trực tuyến là tư duy chưa phù hợp của cả nhà quản lý, giảng viên và người học. Nhiều người vẫn chỉ coi đào tạo trực tuyến là giải pháp tình thế đối phó với đại dịch Covid. Thậm chí còn cho rằng đào tạo trực tuyến là tốn kém, không chất lượng, và nhiều nội dung không thể dạy trực tuyến. Thực tế không phải vậy.
Đào tạo trực tuyến không phải là giảng viên giảng trực tuyến. Công nghệ mới cho phép giảm thiểu sức lực của giảng viên, tăng cường tối đa tương tác giữa giảng viên và người học, giữa người học và người học.
Đào tạo trực tuyến có thể đánh giá đầy đủ sự tiến bộ của người học theo từng thời điểm qua các công cụ đánh giá, cho phép mọi người học được thảo luận thông qua các diễn đàn. Nhà trường không phải đầu tư hạ tầng công nghệ thông tin nên không tốn kém. Một giảng viên, một nội dung được thiết kế có thể tổ chức đào tạo cho rất nhiều người nên rất tiết kiệm chi phí.
Và hơn hết, thời gian của người học và giảng viên được khai thác tối ưu.
Thực tế đáng mừng là qua đại dịch Covid, nhận thức đã và đang được thay đổi.
Nhiều trường đã hưởng ứng với chỉ đạo của Bộ coi đào tạo trực tuyến không phải là giải pháp tình thế, mà là giải pháp lâu dài.
Phóng viên: Dù dạy học trong bối cảnh nào hay phương thức gì, thì vẫn phải đảm bảo chất lượng đào tạo đáp ứng chuẩn đầu ra. Các cơ sở sẽ phát huy tự chủ như thế nào để duy trì điều này?
Thứ trưởng Lê Quân: Bộ đã giao tự chủ cho hiệu trưởng nhà trường ban hành chương trình, quy chế đào tạo. Các trường được tự chủ trong thiết kế, giảm tải chương trình, linh hoạt trong kết hợp giữa đào tạo trực tuyến và đào tạo tập trung... Học trên lớp hay học trực tuyến thì người học chỉ được công nhận hoàn thành nội dung nếu đạt điểm yêu cầu.
Điểm khác biệt lớn nhất có lẽ là đào tạo tập trung thường có xu hướng tách giữa dạy và thi. Đào tạo trực tuyến hiện đại thì người học phải học và đạt nội dung này mới được học tiếp nội dung khác trong một học phần; quá trình học và đánh giá đi liền với nhau nhờ ứng dụng công nghệ. Nội dung của một tiết học tập trung thường được chia nhỏ thành nhiều nội dung trong đào tạo trực tuyến.
Linh hoạt tuyển sinh và khai giảng
Phóng viên: Các giải pháp phòng chống dịch bệnh như giãn cách xã hội, chuyển đổi sang giao dịch trực tuyến...khiến cho công tác tuyển sinh của giáo dục nghề nghiệp sẽ gặp khó khăn hơn. Bộ LĐ-TB&XH sẽ gỡ những khó khăn này ra sao?
Thứ trưởng Lê Quân: Sáng tạo và hành động là chìa khóa để vượt qua khó khăn. Nếu cứ tiếp cận thông thường, nhà trường sẽ gặp khó khăn trong tuyển sinh. Bộ đã chỉ đạo các trường cần đổi mới.
Cụ thể, một số hướng đi cần được phát huy:
Thứ nhất, đẩy mạnh về nội dung và hình thức tuyển sinh trực tuyến. Tổng cục đẩy mạnh quảng bá trang web tuyển sinh trực tuyến và ứng dụng Chọn nghề trên điện thoại di động.
Thứ hai, cần tăng cường liên kết giữa các trường để tạo các khối tuyển sinh chung; qua đó có tăng sức cộng hưởng giữa các trường trong tuyển sinh qua mạng xã hội, qua các phương tiện truyền thông... Một số khối ngành được ưu tiên như y tế, du lịch, kỹ thuật...
Thứ ba, cần đổi mới phương thức truyền thông tuyển sinh. Các hội thảo trực tuyến, tư vấn tuyển sinh online qua mạng xã hội... cần được phát huy cao độ. Trong đại dịch, các ứng viên có thời lượng online rất cao. Nếu phương thức truyền thông tuyển sinh được đổi mới, kết quả tuyển sinh cũng khả quan hơn.
Thứ tư, nhà trường có thể linh hoạt trong tuyển sinh và khai giảng.
Chẳng hạn đào tạo trực tuyến cho phép thí sinh có thể nhập học online và theo học ngay các nội dung trước khi nhập học trực tiếp tại trường. Do đó, công tác tuyển sinh và tổ chức đào tạo cũng linh hoạt hơn rất nhiều. Bộ đã chỉ đạo các trường linh hoạt với phương châm "nhập học trước nhập trường".
Thứ năm, tuyển sinh trong giáo dục nghề nghiệp được thực hiện quanh năm vì vậy không nhất thiết phải chờ theo tiến độ thi tốt nghiệp THPT.
Cá nhân tôi đã có ý kiến đề nghị các hiệu trưởng cân nhắc phương án "Học kỳ dự bị" trong trường hợp thi tốt nghiệp THPT chậm.
Theo đó, học sinh chưa tốt nghiệp THPT có thể ghi danh và theo học trực tuyến/tập trung một số nội dung trước khi có bằng tốt nghiệp THPT. Các em sẽ được ghi danh chính thức khi có bằng tốt nghiệp THPT. Phương án này sẽ đảm bảo được tiến độ của năm học.
-Xin cảm ơn ông!
Hạ Anh (Thực hiện)

Các cơ sở giáo dục nghề nghiệp công nhận giá trị của việc kiểm tra, đánh giá trực tuyến
- Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội vừa có hướng dẫn thực hiện quản lý, tổ chức dạy học, kiểm tra đánh giá trong đào tạo trực tuyến tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp.
" alt=""/>Thứ trưởng Lê Quân: 'Nhập học trước khi nhập trường'