Dẫn thực tế từ nghiên cứu, TS Phạm Sỹ Thành, Giám đốc trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chiến lược Trung Quốc (CESS) cho biết bản thân bộ máy tổ chức của Trung Quốc là một dạng nguồn lực, cho phép đánh giá hiệu quả của chính sách bán dẫn. Quốc gia này đã có tư duy không phát triển bán dẫn như một ngành công nghệ dân dụng. Họ không chỉ huy động tiền của dân sự, mà kết hợp công nghệ ứng dụng, và rất nhiều công ty bán dẫn đã hưởng lợi từ mô hình này, thúc đẩy sản xuất các sản phẩm quay ngược trở lại phục vụ cho quốc phòng. Đây là một chuyển hình trọng yếu về tư duy để Trung Quốc có thể đi xa trên chặng đường phát triển công nghệ bán dẫn.
Trung Quốc hiện nay sản xuất khoảng ¼ công suất chip toàn cầu, đảm trách 30% công suất lắp ráp, kiểm thử, đóng gói và tiêu thụ 30% sản lượng chip toàn cầu mỗi năm. Nhưng các công ty bản địa Trung Quốc chỉ chiếm khoảng 7% doanh thu toàn cầu, kém xa so với mức 52% của các công ty Mỹ.
Vào năm 2020, tỷ trọng tiêu thụ các thiết bị chế tạo bán dẫn (SME) của Trung Quốc đạt 18,1 tỷ USD, chiếm 27% tổng mức mua sắm SME toàn cầu, con số này tăng gấp 18 lần về giá trị tuyệt đối và gấp 5 lần về tỷ trọng so với năm 2003 cho thấy sự gia tăng vượt bậc về năng lực sản xuất. Nhưng năm 2020, Trung Quốc nhập khẩu 233,4 tỷ USD chất bán dẫn, lần đầu tiên nhập khẩu bán dẫn vượt qua nhập khẩu dầu mỏ (185,6 tỷ USD), đến năm 2023, mặc dù nhập khẩu bán dẫn đã giảm do các lệnh cấm đến từ bên ngoài cũng như sự chững lại của sản xuất công nghiệp toàn cầu, nhưng nhập khẩu bán dẫn của Trung Quốc vẫn đạt 349,4 tỷ USD, cao hơn dầu mỏ với mức nhập khẩu 337,5 tỷ USD.
"Chúng ta có một bức tranh về Trung Quốc là "cường quốc" về sản xuất và kiểm thử, đóng gói nhưng đồng thời cũng là một quốc gia có mức doanh thu từ bán dẫn rất khiêm tốn và phụ thuộc quá mức vào việc nhập khẩu", TS Thành nhận định.
Ông cho biết trong quá trình mở cửa nền kinh tế, thu hút đầu tư nước ngoài, Việt Nam đã tham gia, ký kết nhiều điều ước quốc tế liên quan tới hoạt động tiêu chuẩn chất lượng như Hiệp định về Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại (WTO/TBT), Công ước quốc tế về các quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa (ICESCR).
Bên cạnh đó, Việt Nam đã ký kết nhiều Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới với Liên minh châu Âu; Hàn Quốc; Liên minh kinh tế Á-Âu; Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương.
Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật đã đưa ra các nguyên tắc chung về xây dựng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, hợp tác quốc tế. Tuy nhiên, các quy định này ở mức cơ bản, chỉ phù hợp tại thời điểm năm 2007. Khi đó, Việt Nam mới gia nhập WTO và quy mô hội nhập kinh tế quốc tế, năng lực tham gia chuỗi cung ứng, sản xuất quốc tế chưa sâu rộng như hiện nay.