

|
Bộ não của họ cảnh giác và nhạy cảm hơn bình thường
|
Tác hại của tình trạng tự dằn vặt bản thân kéo dài
Ngay cả với người bình thường, việc suy nghĩ quá nhiều về một vấn đề nào đó đã là một điều phiền toái. Thói quen tự dằn vặt bản thân liên tục và kéo dài đã được các nhà khoa học chứng minh là có thể gây nguy hại đến cả sức khỏe thể chất lẫn tinh thần của con người.
Trong một công trình nghiên cứu được đăng trên tạp chí Journal of Abnormal Psychology vào năm 2013, nhóm tác giả Michl và các cộng sự khẳng định rằng hành vi thường xuyên tự đay nghiến và trách móc bản thân vì những vấn đề thường ngày trong cuộc sống làm tăng nguy cơ mắc phải các chứng rối loạn tâm lý mãn tính.
Nghiêm trọng hơn, đây là một tác động hai chiều: Khi tinh thần giảm sút, chúng ta lại càng dễ dàng lún sâu hơn vào hành vi tự dằn vặt, khiến tình trạng sức khỏe của chúng ta thêm trầm trọng và rơi vào một cái vòng luẩn quẩn và bế tắc.
Tâm trí của họ không ngừng hoạt động và suy nghĩ hết chuyện này đến chuyện kia |
Nghiên cứu của Thomsen và các cộng sự đăng trên tạp chí khoa học Personality and Individual Differences vào năm 2003 khám phá ra rằng sự thường xuyên lo nghĩ và dằn vặt có thể dẫn đến căng thẳng thần kinh và rối loạn cảm xúc kéo dài.
Nhiều người lại chọn giải tỏa những cảm xúc khó chịu này bằng cách lạm dụng rượu bia hoặc ăn uống thừa mứa đến mức béo phì. Nhóm nghiên cứu của Thomsen cũng đồng thời phát hiện ra rằng những người hay dằn vặt và lo nghĩ luôn gặp khó khăn về giấc ngủ; họ ngủ rất ít hoặc không thể ngon giấc, bởi tâm trí của họ không ngừng hoạt động và suy nghĩ hết chuyện này đến chuyện kia.
Về lâu dài, nếu không khắc phục dần thói quen dằn vặt bản thân và suy nghĩ tiêu cực, chúng ta khó lòng gặt hái thành công trong nhiều hoạt động cần thiết của cuộc sống.
“Với hai mươi năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn tâm lý, tôi khẳng định rằng thói quen tự trách móc bản thân là rào cản lớn với bất kỳ ai mắc phải nó. Nó khiến con người không thể thích nghi với đổi thay, làm cho chúng ta trở nên trì trệ và hủy hoại dần cuộc sống của chúng ta. Nó là kẻ thù của sự phát triển” - nhận định của tiến sĩ tâm lý học Jonice Webb đến từ Lexington, bang Massachusetts (Hoa Kỳ).
Khắc phục thói quen dằn vặt bản thân
Nhiều người lại chọn giải tỏa những cảm xúc khó chịu này bằng cách lạm dụng rượu bia hoặc ăn uống thừa mứa đến mức béo phì. |
Việc tìm đến chuyên gia tâm lý sẽ giúp bạn nâng cao khả năng khắc phục triệt để thói quen tự dằn vặt và suy nghĩ tiêu cực. Bên cạnh đó, chỉ cần có ý thức tự giác và quyết tâm, mỗi người chúng ta hoàn toàn có thể tự mình cải thiện bản thân bằng sáu bước sau:
1. Nhận thức được tình trạng của bản thân:
Nếu bạn có thói quen hay suy nghĩ tiêu cực, bước đầu tiên để khắc phục nó chính là thừa nhận nó. Hãy bắt đầu lưu ý hơn đến những gì mình nghĩ. Khi bạn nhận ra rằng mình có thói quen lặp đi lặp lại vài suy nghĩ hay sự kiện nhất định trong đầu, hoặc thường xuyên lo lắng về những vấn đề nằm ngoài khả năng giải quyết của bản thân, hãy thừa nhận rằng việc lo nghĩ về chúng chẳng ích lợi gì cho bản thân mình, càng không hề giúp cải thiện tình trạng của bạn trên thực tế.
2. Làm chủ suy nghĩ trong đầu:
Nên dành ra 20 phút mỗi ngày chỉ để suy nghĩ và chiêm nghiệm bản thân |
Mỗi khi lo lắng, chúng ta dễ dàng bị đắm chìm trong những suy nghĩ tiêu cực. Trước khi kết luận bất kỳ một vấn đề nào đó khiến bạn bất an, hãy tỉnh táo xem xét xem mình có đang trầm trọng hóa nó quá mức cần thiết hay không.
Hãy học cách nhận diện những thời khắc như thế này và thay thế những sự suy diễn tiêu cực bằng những thông tin có cơ sở trước khi chúng kịp chiếm hữu tâm trí bạn.
3.Tập trung vào việc giải quyết vấn đề:
Với hai mươi năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn tâm lý, tôi khẳng định rằng thói quen tự trách móc bản thân là rào cản lớn với bất kỳ ai mắc phải nó. Nó khiến con người không thể thích nghi với đổi thay, làm cho chúng ta trở nên trì trệ và hủy hoại dần cuộc sống của chúng ta. Nó là kẻ thù của sự phát triển”
Tiến sĩ tâm lý học Jonice Webb đến từ Lexington, bang Massachusetts (Hoa Kỳ)
|
Thay vì ngồi một chỗ dằn vặt những chuyện đã qua, việc tập trung vào hành động giải quyết vấn đề sẽ giúp bạn cải thiện tình hình thực tế lẫn tình trạng của bản thân. Hãy phân tích xem mình học hỏi được gì từ những sai lầm đã qua và cần làm những gì để chúng không tái diễn.
4. Dành thời gian chiêm nghiệm:
Để có thể rút kinh nghiệm và giải quyết những vấn đề khiến bạn lo nghĩ, việc tĩnh tâm chiêm nghiệm là cần thiết. Các nhà tâm lý học đề xuất chúng ta nên dành ra 20 phút mỗi ngày chỉ để suy nghĩ và chiêm nghiệm bản thân.
Trong suốt khoảng thời gian này, chúng ta hãy thoải mái hồi tưởng lại những chuyện đã qua, lo lắng, suy tư, than thở hoặc giải tỏa cảm xúc - nếu những hành động đó khiến chúng ta cảm thấy thoải mái hơn. Sau khi khoảng thời gian này trôi qua, hãy dừng suy nghĩ và tập trung làm những công việc quan trọng khác của bản thân.
Mỗi khi bạn nhận thấy mình có dấu hiệu lặp lại những suy nghĩ tiêu cực trong đầu trong lúc đang làm việc khác, hãy tự nhắc nhở bản thân rằng đây chưa phải lúc, và mình sẽ có dịp nghĩ về chúng vào đúng khoảng thời gian đã được quy định.
5. Học cách trân quý hiện tại:
Chúng ta đều biết rằng quá khứ không thể thay đổi được, còn tương lai thì vẫn luôn mơ hồ, nên việc lo nghĩ thái quá về chúng chẳng hề giúp bạn thay đổi tình trạng hiện tại của bản thân. Hãy luyện tập lối sống trân quý hiện tại, trân trọng những gì mình đang có.
Việc luyện tập này là một quá trình đòi hỏi sự kiên nhẫn, nhưng một khi chúng ta làm được, chúng ta cũng đồng thời khắc phục được nhiều thói quen không tốt của bản thân, bao gồm cả thói quen suy nghĩ tiêu cực và tự dằn vặt.
6. Sống chủ động và yêu thương bản thân hơn:
Việc chủ động tham gia vào những hoạt động lành mạnh vẫn luôn là một trong những phương pháp hiệu quả nhất giúp chúng ta sống tích cực và đập tan những tác nhân tiêu cực trong cuộc sống của mình. Các hoạt động như luyện tập thể dục thể thao, những công việc có mục tiêu hoặc định hướng cụ thể giúp chúng ta rèn luyện dần khả năng tập trung và không còn thời gian cho những suy nghĩ gây xao nhãng.
Bên cạnh đó, thói quen chăm sóc và yêu thương bản thân chính là chiến lược hiệu quả và lâu dài cho mọi vấn đề của chúng ta, giúp chúng ta thấu hiểu bản thân mình hơn - bao gồm cả những khiếm khuyết của mình - một cách tích cực, để từ đó, chúng ta tìm thấy chìa khóa giải quyết mọi vấn đề và nâng cao chất lượng cuộc sống của bản thân mình.

Bé 33 ngày tuổi chết: Lời khai xé lòng của người mẹ trầm cảm
Trinh khai, khi tỉnh dậy, thấy đau đầu và có cảm giác như có ai nhập vào người khiến Trinh mất kiểm soát và thực hiện hành vi giết con.
" alt=""/>Dằn vặt bản thân và những mối nguy hại đối với sức khỏe
Ngoài cờ Mỹ và dấu chân phi hành gia, máy ảnh Hasselblad 500EL là một trong những thứ đầu tiên được để lại sau khi con người chụp các tấm hình đầu tiên trên Mặt trăng.Ở thời sơ khai, những chiếc máy ảnh đầu tiên được NASA sử dụng là Leica 1G có cảm biến tia cực tím để chụp ảnh UV hay Ansco Autoset có thể chụp những bức ảnh màu.
Sau đó, phi hành gia Wally Schirra của NASA đề xuất việc sử dụng máy Hasselblad 500C. Đây là máy ảnh có công nghệ tiên tiến bậc nhất khi ấy, minh chứng cho sự hợp tác giữa công ty nhiếp ảnh Thụy Điển và NASA vài năm trước khi Apollo 13 được phóng.
.jpg) |
Một trong những bức hình đầu tiên được chụp trong nhiệm vụ năm 1969. Ảnh: NASA. |
Hasselblad 500C được loại bỏ kính ngắm, gương phản chiếu, màn trập phụ và cả vỏ bọc da để nhẹ nhất có thể. Nó được trang bị cuộn phim 70 tấm thay vì 12 như đời trước.
Sau 500C, Apollo 11 được trang bị hai máy Hasselblad là 500EL Data Camera (HDC) và Electric Camera (HEC). HDC dùng để chụp bề mặt Mặt trăng, trang bị ống Zeiss Biogon 60 mm f/5.6 với cuộn phim thiết kế đặc biệt cho phép phơi sáng 200 lần trên phim Kodak 70 mm.
Giống như 500C, HDC được điều chỉnh để chịu sự khắc nghiệt của không gian. Máy dùng sơn màu bạc để có biên độ chịu nhiệt -65 đến 120 độ C. Một tấm kính đặc biệt được thêm vào nhằm để lại các dấu "+" trong hình ảnh chụp được, dùng để đo đạc và thu thập dữ liệu sau này.
.jpg) .jpg) .jpg) |
Để giảm trọng lượng cho hành trình trở về, máy ảnh, ống kính và nhiều phụ kiện đã bị bỏ lại trên Mặt trăng. Ảnh: NASA. |
HDC được Neil Armstrong sử dụng trong chuyến du hành trên Mặt trăng đầu tiên của con người. Một trong những tấm hình thú vị nhất là khi Armstrong "selfie" qua ảnh phản chiếu từ mũ của phi hành gia Aldrin, phía xa là hình ảnh Trái Đất bị đảo ngược sau đường chân trời Mặt trăng .
Hasselblads không phải là chiếc máy ảnh duy nhất trong nhiệm vụ năm 1969. Ngoài ra còn có một máy Kodak chuyên chụp cận cảnh nền Mặt trăng, hai máy Maurer 16 mm quay video, cùng với một camera gắn bên ngoài tàu vũ trụ và camera truyền hình màu.
Sau hành trình kéo dài tám ngày, con tàu vũ trụ nặng hơn 45 tấn khi phóng sẽ quay về với khối lượng gần 5 tấn. Để giảm trọng lượng, máy ảnh, ống kính và nhiều phụ kiện đã bị bỏ lại. Năm nhiệm vụ Apollo sau đó cũng để lại tổng cộng 12 máy ảnh Hasselblad trên bề mặt Mặt trăng.
.jpg) .jpg) .jpg) |
Một trong những thành tựu đáng tự hào nhất của Hasselblad là trở thành một phần của lịch sử thám hiểm không gian. Ảnh: NASA. |
Hasselblad vẫn tiếp tục hợp tác với NASA trong các nhiệm vụ Apollo sau đó, trước khi nhiệm vụ đổ bộ Mặt trăng cuối cùng được thực hiện vào năm 1972.
“Đó là một trong những thành tựu đáng tự hào nhất của Hasselblad khi trở thành một phần lịch sử thám hiểm không gian của loài người”, ông Dan Wang, Giám đốc tiếp thị của Hasselblad Bắc Mỹ cho biết, “Trong những ngày kỷ niệm 50 năm cuộc đổ bộ Mặt trăng đầu tiên được thực hiện, chúng tôi vui chung niềm vui với ngành hàng không vũ trụ, cũng như đặt niềm tin vào những nhà thám hiểm thế hệ tiếp theo của chúng ta".
" alt=""/>50 năm trước, con người đã bỏ lại những gì trên Mặt trăng?