Clip hậu trường tập luyện liveshow của Tùng Dương
ùngDươngtrêuđùaHàTrầnBùiLanHươnghậutrườngtậgiá usd ngày hôm nay
Clip hậu trường tập luyện liveshow của Tùng Dương
ùngDươngtrêuđùaHàTrầnBùiLanHươnghậutrườngtậgiá usd ngày hôm nayVụ tai nạn giao thông kinh hoàng này xảy ra tại Trung Quốc vào ngày 26/3 vừa qua.
Hình ảnh từ video ghi lại vụ việc cho thấy, tài xế chếc ô tô con màu trắng đã không chú ý quan sát khi lùi xe nên không thấy 2 đứa trẻ đang chơi ở phía sau xe. Hậu quả là ô tô đã đâm trúng 2 đứa trẻ, một đứa trẻ còn bị bánh xe cán qua người.
May mắn là khi vừa đâm vào 2 đứa trẻ, tài xế đã kịp thời dừng xe lại. Sau đó, tài xế đã đưa 2 đứa trẻ đi bệnh viện cấp cứu.
Đã có nhiều vụ tại nạn thương tâm liên quan đến việc lùi xe ô tô, chủ yếu là do tài xế chủ quan, chưa quan sát kĩ. Vụ việc này là bài học đắt giá cho các tài xế, khi lùi xe ô tô cần chú ý quan sát, đặc biệt cần cẩn trọng tại các khu dân cư đông đúc, khu vui chơi trẻ em…
Phương Linh (Theo Live Leak)
Người phụ nữ vội sang đường mà không chú ý chiếc xe buýt dừng chờ đèn đỏ đã bắt đầu chạy. Hậu quả là người này bị xe buýt tông trúng, cuốn vào gầm, bị kéo rê hàng chục mét. May mắn, người này vẫn sống sót.
" alt=""/>Tài xế bất cẩn, ô tô lùi trúng 2 đứa trẻCác hiệp định thương mại đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo khả năng cạnh tranh thị trường và tính bền vững của ngành nông nghiệp. Australia đã đàm phán thành công các hiệp định thương mại với nhiều đối tác lớn. Tuy nhiên, không ít nhà xuất khẩu nông sản quy mô khác cũng đã theo đuổi những thỏa thuận của riêng họ, đôi khi đạt được kết quả tương tự hoặc thậm chí tốt hơn.
Việc đạt được những lợi ích liên tục đối với thương mại tự do hóa sẽ đòi hỏi các cuộc đàm phán của Australia tiếp tục tập trung vào những rào cản truyền thống, chẳng hạn như thuế quan và hạn ngạch thuế quan, cùng với việc tiếp cận thị trường kỹ thuật rộng rãi hơn và cam kết đa phương.
Nền nông nghiệp Australia có một lịch sử lâu đời phụ thuộc vào thị trường thế giới. Từ những năm đầu xuất khẩu len và ngũ cốc sang Châu Âu, hiện nay Australia sản xuất nhiều loại hàng hóa và số lượng thị trường mà nước này xuất khẩu đã mở rộng đáng kể. Sự tăng trưởng trong sản xuất nông nghiệp được thúc đẩy bởi việc áp dụng các công nghệ mới và mở rộng diện tích canh tác.
Australia hiện nằm trong số 15 nước xuất khẩu nông sản hàng đầu thế giới, với lĩnh vực này xuất khẩu khoảng 70% sản lượng đến 192 quốc gia. Thành công này trên trường thế giới không thể đạt được nếu không có quan hệ đối tác của chính phủ và ngành, để đảm bảo khả năng tiếp cận thị trường trên các thị trường toàn cầu.
Việc tiếp cận đó cũng được hỗ trợ theo thời gian thông qua kết quả đàm phán tại các diễn đàn đa phương, chẳng hạn như Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), các hiệp định thương mại ưu đãi (có thể là song phương hoặc đa phương) và thông qua các giao thức an toàn sinh học đã được thống nhất.
Mở rộng thị trường bằng các hiệp định thương mại
Giai đoạn 2019-2020, xuất khẩu nông sản của Australia đã tăng 20% lên 48,4 tỷ USD. Sự tăng trưởng đó có thể trực tiếp nhờ vào thương mại trong khu vực châu Á và gián tiếp nhờ các FTA của Australia với một số nước châu Á, bao gồm ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Thị phần của Australia trong tổng xuất khẩu nông sản sang châu Á tăng từ 52% trong giai đoạn 1999-2000 lên 76% trong giai đoạn 2019-2020.
Trong vòng 10 năm, Australia đã ký 9 FTA, trong đó có Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Indonesia-Australia (IA-CEPA) gần đây nhất. Tính đến tháng 7/2020, Australia đã có 14 FTA có hiệu lực, 1 FTA đã đàm phán nhưng chưa có hiệu lực và 4 FTA đang đàm phán. Trong giai đoạn 2019-2020, 81% xuất khẩu nông sản của Australia được dành cho các quốc gia mà họ có hiệp định thương mại ưu đãi.
Hệ quả từ việc gia tăng các hiệp định thương mại của Australia là những thỏa thuận riêng biệt, có thể áp dụng cho các quốc gia giống nhau. Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Khu vực Thương mại Tự do ASEAN-Australia-New Zealand (AANZFTA) là các thỏa thuận đa phương bao gồm nhiều bên, trong đó có một số bên mà Australia cũng có thỏa thuận song phương.
Nhiều hiệp định với cùng một quốc gia mang lại tự do hóa thương mại lớn hơn và có thể cải thiện khả năng tiếp cận thị trường. Nhược điểm của nhiều hiệp định với một đối tác là chúng làm tăng tính phức tạp của bối cảnh thương mại đối với các nhà xuất khẩu, những người cần hiểu và điều hướng các điều khoản của nhiều hiệp định thương mại sang quốc gia đó.
Sự phức tạp của các hiệp định thương mại gần đây là rõ ràng trong phạm vi rộng hơn của các yêu cầu tiếp cận thị trường kỹ thuật ngoài thuế quan, chẳng hạn như quy tắc xuất xứ, các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch động thực vật (SPS), các rào cản kỹ thuật đối với thương mại (TBT). Những yêu cầu này có thể làm tăng chi phí của nhà xuất khẩu, đặc biệt là khi có sự khác biệt giữa các quy tắc kỹ thuật có thể rõ ràng trong một hiệp định nhưng không rõ ràng trong hiệp định khác.
Quy mô thị trường thúc đẩy sự tiến bộ của công nghệ trong sản xuất
Trên thực tế, Australia không phải là quốc gia duy nhất theo đuổi các hiệp định thương mại ưu đãi. Sau sự đình trệ của Vòng đàm phán Doha, đã có sự gia tăng của các hiệp định thương mại khi nhiều quốc gia đang tìm kiếm những kết quả thương mại có thể thực hiện nhanh hơn. Tính đến ngày 1/7/2020, đã có 305 hiệp định thương mại có hiệu lực trên toàn cầu.
Ưu tiên hiện tại của ngành nông nghiệp Australia sẽ tiếp tục là tiếp cận các thị trường xuất khẩu và cạnh tranh trên các thị trường đó. Chính vì vậy, Australia đang tăng cường thúc đẩy các công nghệ mới trong sản xuất, canh tác và các nền tảng số để gắn kết nhà đầu tư, nhà xuất khẩu, đối tác nghiên cứu và người nông dân.
Bên cạnh đó, chính phủ Australia cũng khởi động Food Agility CRC, một dự án nhằm khuyến khích đổi mới và đầu tư nước ngoài vào ngành nông nghiệp công nghệ, nhờ ứng dụng Big Data, IoT nhằm hướng tới những nông sản chất lượng cao, đảm bảo hiệu quả kinh tế và duy trì thị trường.
Bằng kế hoạch Nông nghiệp 4.0 với kinh phí đầu tư 600 triệu đô la Australia (khoảng 405 triệu USD) vào lĩnh vực nghiên cứu và phát triển công nghệ nông nghiệp, chính phủ nước này hy vọng sẽ tăng giá trị sản lượng nông nghiệp từ 59,978 tỷ đô la Australia (khoảng 46 tỷ USD) hiện nay lên 100 tỷ đô la Australia (khoảng 77 tỷ USD) vào năm 2030.
Tại Việt Nam, Bộ TT&TT đang hỗ trợ các hộ nông dân để đưa sản phẩm của mình lên sàn thương mại điện tử là Postmart và Voso để giúp họ bán sản phẩm ra toàn quốc. Bộ TT&TT kỳ vọng với cách này sẽ giúp hàng chục triệu hộ nông dân có được thị trường lớn và bán được sản phẩm của họ với giá cao, đồng thời người tiêu dùng cũng mua được sản phẩm có nguồn ngốc và chất lương rõ ràng. Bộ TT&TT đã xác định năm 2021 là năm hành động mạnh hơn để chuyển đổi số quốc gia. Chương trình chuyển đổi số quốc gia cũng chọn nông nghiệp là 1 trong 8 lĩnh vực ưu tiên chuyển đổi số.
Điệp Lưu
Một số câu chuyện ở Brazil, như sự thịnh hành của robot cho lợn ăn hay dự án 5G hỗ trợ người trồng đậu nành, cho thấy ngành nông nghiệp có thể được ứng dụng công nghệ như thế nào.
" alt=""/>Australia giải bài toán nông nghiệp 4.0 thông minh gắn với thị trườngMột năm “work from home” đã tạo ra 2 chiều hướng tâm lý tại Việt Nam: 81% người lao động muốn tiếp tục làm việc từ xa, trong khi 77% mong gặp lại đồng nghiệp nơi văn phòng. Để đáp ứng nhu cầu của cả 2 nhóm, chỉ có môi trường làm việc linh hoạt mới giúp họ an tâm dù làm việc ở nhà hay đến công sở mùa dịch.
“Làm việc kết hợp” cũng cho thấy khả năng khắc phục nhiều hạn chế trong các mô hình làm việc trước đây. Báo cáo của Microsoft cũng cho thấy, đằng sau năng suất lao động cao là cả lực lượng lao động kiệt sức, 40% nhân sự tại Việt Nam đang quá tải công việc, 20% thấy kiệt sức. Riêng Gen Z - thế hệ chủ lực mới - có 44% nói đang phải vật lộn với công việc và cần sạc năng lượng hơn bao giờ hết.
Chuyển đổi sang mô hình làm việc kết hợp là cần thiết để người lao động hạnh phúc hơn. Sau một năm chứng thực hiệu quả, có 62% lao động trong nước được sống thật với chính mình, tìm thấy năng suất và niềm vui trong công việc. Họ còn trải nghiệm cảm xúc trước nay chưa từng có: 20% đã trải lòng và khóc với đồng nghiệp, 15% vui vẻ gặp thú cưng và 34% gặp gia đình của đồng nghiệp qua mạng… Môi trường linh hoạt cũng mở ra thế giới nghề nghiệp mới với người lao động. Có đến 46% lao động và 52% Gen Z tại Việt Nam đang cân nhắc “nhảy việc” trong 2021.
“Có 71% lãnh đạo doanh nghiệp đã nhận ra loạt thay đổi này. Việc quyết định chuyển đổi hôm nay sẽ tác động đến mọi thứ, từ cách định hình văn hóa doanh nghiệp, thu hút và giữ chân nhân tài, đến thúc đẩy hợp tác và đổi mới”, bà Quyên nhận định.
“Làm việc kết hợp” không chỉ bộc lộ tính hiệu quả và cần thiết ở Việt Nam, mà còn phù hợp với xu thế toàn cầu. Tại Nhật Bản, 63% lao động tăng năng suất làm việc. 55% người làm việc từ xa ở châu Á thấy hạnh phúc khi được sống thật với con người mình hơn. 61% nhà tuyển dụng ở Úc và New Zealand cũng quan tâm cân bằng công việc và cuộc sống cho nhân viên.
Chuẩn mực mô hình ‘Hybrid Workplace’ cho doanh nghiệp
Cách đây một năm, Microsoft đã sớm nhận ra tác động phức tạp của Covid-19 đến xã hội và tiên phong xây dựng mô hình “Hybrid Workplace” với 6 giai đoạn hướng đến sức khỏe, hạnh phúc của hơn 160.000 nhân viên của họ trên toàn cầu.
Ngay khi Covid-19 ập đến tháng 3/2020, Microsoft khởi động giai đoạn 1 đóng cửa văn phòng và giai đoạn 2 bắt buộc làm việc tại nhà. Sau đó, tùy vào tình hình Covid-19 của từng nơi mà chuyển sang giai đoạn 3 khuyến khích nhân viên làm việc từ xa, một số lên văn phòng nếu cần. Thời điểm dịch được kiểm soát, Hybrid Workplace bước sang giai đoạn 4 và 5, dần đón nhân viên trở lại văn phòng. Dịch phức tạp, lùi về giai đoạn 1-3. Chỉ khi hết dịch, giai đoạn 6 mở cửa văn phòng lại bình thường mới đến.
![]() |
Mô hình làm việc kết hợp Hybrid Workplace |
“Nếu doanh nghiệp nào chưa có những quy định và mô hình hướng dẫn làm việc kết hợp trong bối cảnh đại dịch hay bắt nhịp xu hướng làm việc kết hợp giữa dịch, chúng tôi kỳ vọng rằng, Hybrid Workplace từ Microsoft sẽ là một sự tham khảo, trở thành mô hình làm việc linh hoạt và chuẩn mực, giúp các doanh nghiệp bước vào kỷ nguyên làm việc sáng tạo mới”, bà Quyên cho hay.
Microsoft đang có 80% nhân viên toàn cầu làm việc từ xa và 20% trở lại văn phòng. Dù đi làm lại, 69% nhân viên dành ít hơn 50% thời gian tại nơi làm việc. Thậm chí, ở giai đoạn 4, có 54% người dành dưới 25% thì giờ ở công ty. Tập đoàn cũng cải tiến nhiều công nghệ hỗ trợ làm việc từ xa với Teams và Azures, giúp nhân viên thích ứng tốt khi làm việc ở nhà.
Microsoft Teams đã bổ sung hơn 10 tính năng mới cho trải nghiệm họp online giống như lên công ty ngồi họp, chẳng hạn như Together Mode để tất cả sếp và đồng nghiệp nhìn thấy mặt nhau; Microsoft Whiteboard cấp quyền cho mọi người cùng “brains storm” vẽ kế hoạch kinh doanh trên bảng trắng; Dynamic View chia sẻ ngay tài liệu trên màn hình cho tất cả người dự…
Trong khi đó, Microsoft Azures với hơn 200 dịch vụ giúp tổ chức quản lý hiệu suất của nhân viên, bảo mật dữ liệu…, tạo cầu nối giữa thế giới vật lý và thế giới số. Với công cụ hỗ trợ, nhiều doanh nghiệp nhận ra rằng công việc đã không còn bị ràng buộc bởi quan niệm truyền thống về thời gian và không gian khi đề cập tới phương thức, thời điểm và địa điểm làm việc.
Hà Bùi
Người lao động tại các quốc gia châu Á dường như đang thích ứng rất tốt với hoàn cảnh phải làm việc từ xa. Tuy vậy, có rất nhiều ý kiến lo ngại về việc không còn ranh giới giữa cuộc sống và công việc.
" alt=""/>Microsoft đón đầu xu hướng Làm việc kết hợp – Hybrid Workplace