![]() |
![]() |
Trình diễn các tiết mục văn nghệ truyền thống tại Quảng trường Con ngựa, Praha.
Để đạt được những thành tựu đó, trong những năm qua, cộng đồng người Việt đã tích cực giữ gìn, phát huy, lan tỏa bản sắc văn hóa truyền thống thông qua các lễ hội như Tết cổ truyền, Tết trung thu… qua đó góp phần quảng bá giá trị tốt đẹp của con người đất nước Việt Nam với chính quyền sở tại.
Các tổ chức hội đoàn người Việt cũng tham gia tích cực vào các hoạt động giao lưu văn hóa của nước sở tại như Lễ hội Hành tinh màu, Festival các dân tộc thiểu số… Một điểm nhấn đặc biệt trong 3 năm qua đó là người Việt tại Séc luôn đồng hành, chung tay cùng chính quyền sở tại trong việc chống lại đại dịch Covid-19, giúp đỡ người dân bị ảnh hưởng bởi thiên tai dịch bệnh và có những đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế của CH Séc qua đó góp phần nâng cao hình ảnh, uy tín vị thế con người Việt Nam.
Cộng đồng người Việt đã tích cực giữ gìn, phát huy, lan tỏa bản sắc văn hóa truyền thống thông qua các lễ hội như Tết cổ truyền, Tết trung thu.
Việc được công nhận là một dân tộc thiểu số tại Séc, cộng đồng người Việt được hưởng các lợi ích được quy định trong điều luật của Séc về các cộng đồng dân tộc thiểu số, như được cử đại diện của mình vào các Hội đồng Dân tộc thiểu số ở cấp địa phương cũng như cấp trung ương, được thảo luận và đưa ra ý kiến tại hội đồng về những vấn đề liên quan đến dân tộc thiểu số, được chính quyền sở tại hỗ trợ kinh phí cho các hoạt động giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc. Đây không chỉ là cơ hội mà còn là thách thức để người Việt tại Séc không chỉ hòa nhập mà còn phải biết giữ gìn, phát huy hơn nữa các giá trị truyền thống trong thời gian tới.
Ông Phạm Công Tú - Chủ tịch hội người Séc gốc Việt chia sẻ: "Hiện nay, cộng đồng người Việt đã vượt qua giai đoạn hết sức gian nan, được Chính phủ Séc và các lãnh đạo biểu dương về những đóng góp tiêu biểu cho xã hội Séc. Về mặt hội nhập, chúng ta cũng được đánh giá rất cao. Tuy nhiên, chính điểm đó có thể là thách thức trong thế hệ trẻ. Chúng ta muốn hội nhập nhưng mà tôi vẫn sợ là trong cái hội nhập đó chúng ta có thể bị hòa tan. Vì vậy, thế hệ mới cần phải được sự hỗ trợ của các thế hệ đi trước nhất là trong vấn đề giáo dục. Nếu chúng ta không gìn giữ một cái kỷ luật trong giáo dục gia đình thì sau đó chúng ta đã dần dần rớt xuống. Do đó, chúng ta phải hết sức cố gắng đi tiếp để giai đoạn tới sẽ đi tốt hơn".
Lãnh đạo Đại sứ quán và các hội đoàn người Việt tại Séc chụp ảnh lưu niệm.
Tính đến thời điểm hiện tại, cộng đồng người Việt sinh sống tại Séc có gần 96.000 người, là cộng đồng đoàn kết, giàu tình tương thân, tương ái, có trách nhiệm, chăm chỉ, năng động, sáng tạo, tuân thủ pháp luật cũng như luôn hướng về quê hương, đất nước.
Với sự nỗ lực không ngừng nghỉ, cộng đồng người Việt tại Séc đã và đang từng bước hội nhập bền vững và có nhiều đóng góp thiết thực vào đời sống kinh tế, văn hóa - xã hội sở tại. Có thể nói, sự tồn tại, hội nhập và phát triển của cộng đồng người Việt tại Séc trong giai đoạn qua chính là cầu nối đặc biệt quan trọng góp phần duy trì, củng cố và phát triển hơn nữa mối quan hệ hữu nghị truyền thống, hợp tác trên nhiều lĩnh vực giữa nhà nước và nhân dân hai nước.
" alt=""/>Cộng đồng người Việt hội nhập ngày càng sâu rộng vào xã hội CH SécChị N.H.O. thời điểm điều trị tại Bệnh viện Chợ Rẫy (Ảnh: BV).
Tại Bệnh viện Chợ Rẫy, các bác sĩ đánh giá đây là trường hợp rất khó, khi ung thư hạch đã nhiều lần tái phát và kháng trị, đồng thời bệnh nhân đang mang khối u rất lớn.
Sau hội chẩn, ekip điều trị đã quyết định thực hiện đồng thời 2 kỹ thuật cao, chuyên sâu để điều trị cho người bệnh. Đó là ghép tế bào gốc đồng loài phối hợp với phác đồ điều kiện hóa diệt tủy có xạ trị toàn thân (TBI).
Tiến sĩ, bác sĩ Trần Thanh Tùng, Trưởng khoa Huyết học, Bệnh viện Chợ Rẫy (TPHCM) cho biết, nếu muốn xử lý triệt để các tế bào ung thư, trước tiên, bệnh nhân cần được hóa trị để làm sạch các tế bào ung thư.
Sau đó, TBI giống như một vũ khí sẽ quét sạch các tế bào còn sót lại ẩn giấu trong cơ thể. Cuối cùng, bệnh nhân được ghép các tế bào máu mới thì sẽ được (chữa khỏi) ổn định. May mắn là chị ruột của bệnh nhân khỏe mạnh, có các chỉ số HLA phù hợp 100%, nên đã tặng tế bào máu gốc của mình cho em gái.
Bệnh nhân O. thời điểm thực hiện xạ trị toàn thân (Ảnh: BV).
Bệnh nhân O. đã được áp dụng phác đồ điều trị với 3 ngày liên tục xạ trị toàn thân, mỗi ngày 2 lần. Quá trình này, ngoài vấn đề điều trị chuyên môn còn có sự phối hợp của bảo vệ, bộ phận quản lý thang máy.
Bệnh nhân được 1 điều dưỡng chuyên trách đưa vào thang máy, xử lý các vấn đề kiểm soát nhiễm khuẩn, để quá trình làm xạ trị an toàn nhất.
Sau điều trị TBI, bệnh nhân được theo dõi và triển khai ghép tế bào gốc đồng loài. 45 ngày sau ghép, bệnh nhân được xuất viện. Đến nay sau 5 tháng điều trị, sức khỏe bệnh nhân ổn định, đã đi làm và trở lại cuộc sống bình thường.
Sau 5 tháng điều trị, sức khỏe bệnh nhân đã ổn định, sinh hoạt bình thường (Ảnh: BV).
Tiến sĩ, bác sĩ chuyên khoa 2 Nguyễn Tri Thức, Giám đốc bệnh viện Chợ Rẫy chia sẻ, việc phối hợp đồng thời 2 kỹ thuật cao, chuyên sâu của nơi này đã mở ra cơ hội cho các bệnh nhân ung thư, vì phương pháp này ít tác dụng phụ, ít biến chứng và thời gian nằm viện cũng ngắn hơn…
Trường hợp trên cũng là lần đầu tiên tại Việt Nam, một bệnh viện công lập thực hiện thành công đồng thời 2 kỹ thuật ghép tế bào gốc đồng loài và xạ trị toàn thân để điều trị cho bệnh nhân ung thư hạch.
Bác sĩ Thức hy vọng, trong tương lai sẽ có sự kết hợp giữa Bệnh viện Chợ Rẫy với các bệnh viện huyết học, để tăng cường hiệu quả điều trị cho các bệnh nhân bệnh ung thư máu, góp phần cải thiện được chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân.
TBI (total body irradiation, xạ trị toàn cơ thể) là phương pháp có từ năm 1900 trên thế giới, chỉ định trong điều trị ung thư từ 1950. TBI được chỉ định điều trị cho một số bệnh lý ung thư mang tính chất lan tỏa toàn thân như ung thư về hệ thống huyết học, bạch cầu cấp hoặc là lymphoma có di căn hạch nhiều nơi.
Với ưu điểm là xạ trị ở tất cả các vị trí trong cơ thể nhằm kiểm soát các tế bào của bệnh ung thư, TBI góp phần khắc phục một số nhược điểm của hóa trị kinh điển.
Với ghép tế bào gốc, có 2 phương pháp là tự ghép (lấy tế bào gốc của chính bệnh nhân đó truyền lại cho chính bệnh nhân đó sau khi hóa trị) và dị ghép (còn gọi là ghép đồng loài).
Vì bệnh nhân H.O tái phát kháng trị nên không thể lấy tế bào gốc của bệnh nhân vì trong máu bệnh nhân còn tế bào ung thư. Do đó, bắt buộc phải áp dụng phương pháp ghép tế bào gốc đồng loài.
" alt=""/>BV Chợ Rẫy làm điều "lần đầu tiên ở Việt Nam" cứu bệnh nhân ung thư hạchVi chất dinh dưỡng rất quan trọng với sức khỏe (Ảnh: T.G).
Thiếu sắt, vitamin A và iốt là những vấn đề thiếu vi chất phổ biến nhất trên thế giới hiện nay. Những vùng nghèo, vùng sâu, vùng xa và chịu ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu phải chịu gánh nặng thiếu hụt vi chất dinh dưỡng nặng nề hơn các nơi khác.
Phụ nữ có thai, phụ nữ cho con bú, trẻ nhỏ không được nuôi con bằng sữa mẹ, trẻ em không được ăn bổ sung hợp lý, trẻ em suy dinh dưỡng, thừa cân, béo phì là những đối tượng nguy cơ cao với thiếu vi chất.
Thiếu vi chất dinh dưỡng có thể gây ra hàng loạt các hậu quả về sức khỏe một cách tiềm tàng hay ở mức có ý nghĩa sức khỏe cộng đồng. Từ đó, dẫn đến giảm kết quả học tập, năng suất làm việc và tăng nguy cơ mắc các bệnh và rối loạn sức khỏe khác.
Thiếu vi chất dinh dưỡng có thể phòng tránh được. Ăn uống hợp lý, đa dạng, duy trì bữa ăn gia đình, sử dụng thực phẩm tăng cường vi chất hoặc bổ sung vi chất khi bị thiếu hụt, phòng và điều trị bệnh (nhiễm giun sán, nhiễm khuẩn đường hô hấp, tiêu chảy…) và thực hành vệ sinh là những giải pháp dự phòng thiếu vi chất.
Các chương trình giáo dục, truyền thông cũng có hiệu quả rõ rệt trong việc cải thiện hiểu biết của người dân và dự phòng thiếu vi chất dinh dưỡng.
Sự chuyển tiếp về thói quen ăn uống của người Việt Nam
Người Việt Nam, từ chỗ tổ chức bữa cơm gia đình nhằm ăn để no trong các giai đoạn nghèo khó, với chế độ ăn chủ yếu là các món ăn thiên về thực vật, tự nhiên, nấu nướng tại nhà, đã dần chuyển tiếp sang ăn để thưởng thức, ăn để đẹp, để khỏe.
Ngày nay, xu hướng chung là những món ăn được chế biến cầu kỳ hơn, công phu hơn, sử dụng nhiều loại gia vị đóng gói sẵn. Các món xào, hầm, chiên, rán, nướng… xuất hiện thường xuyên hơn thay vì các món luộc, hấp, ăn tươi như trước đây. Thực phẩm được chế biến và bảo quản với nhiều phụ gia hơn, vừa để tăng tính hấp dẫn vừa để kéo dài thời gian sử dụng thực phẩm.
Thức ăn nhanh có xu hướng được tiêu thụ nhiều hơn tại các thành phố lớn (Ảnh minh họa: T.G).
Cuộc sống hiện đại với áp lực công việc cao, sự du nhập của văn hóa và các thực phẩm từ các nước vào Việt Nam, quá trình đô thị hóa đã dẫn tới sự thay đổi về thói quen ăn uống. Tần suất ăn ngoài gia đình nhiều hơn, người dân tiêu thụ các đồ ăn nhanh, chế biến sẵn và các loại nước đóng chai thậm chí còn chiếm ưu thế ở các thành phố lớn.
Sự chuyển tiếp từ ăn bữa ăn truyền thống (đa dạng thực phẩm), thực phẩm tự nhiên (giàu vi chất) sang chế độ ăn nhanh (thực phẩm đơn điệu) và sử dụng nhiều thực phẩm chế biến sẵn (giàu năng lượng, nhưng lại ít vi chất) khiến cho diễn biến về dinh dưỡng của người dân theo chiều hướng mất cân đối.
Suy dinh dưỡng vẫn còn hiện hữu nhưng thừa cân, béo phì gia tăng nhanh chóng, thiếu vi chất dinh dưỡng cũng thường xuyên xảy ra.
Đặc điểm bữa ăn truyền thống của người Việt Nam
Một trong những mâm cơm truyền thống của người Việt Nam được nhiều gia đình lựa chọn bởi cách chế biến đa dạng các loại thực phẩm (Ảnh: Viện Dinh dưỡng).
Bữa ăn truyền thống của người Việt Nam từ lâu đã được đánh giá là một bữa ăn của sự đa dạng, tổng hòa. Đầu tiên, bữa cơm truyền thống của người Việt Nam là sự đa dạng về các loại thực phẩm và cách chế biến.
Món ăn dù đơn giản như rau luộc có khi chỉ là một loại rau nhưng cũng thường là sự kết hợp đa dạng giữa các loại rau (rau củ quả luộc) với bát nước chấm (nước mắm tỏi ớt, kho quẹt, mắm nêm…) và nồi nước rau luộc được thêm chanh/quất (tắc)/quả sấu, là sự kết hợp đa dạng của các vị (chua, cay, mặn, ngọt).
Các món ăn cầu kỳ như nem rán (chả giò), phở… đều được kết hợp từ nhiều nguyên liệu và được nấu với nhiều cách khác nhau, với các loại gia vị khác nhau ở các vùng miền. Chúng không những cung cấp đủ 4 nhóm chất dinh dưỡng chính cần thiết cho cơ thể người mà còn làm cho các món ăn hấp dẫn, ngon miệng hơn.
Các món xào, nấu, hầm, nộm… của người Việt Nam cũng thường có nhiều thực phẩm, ít khi chỉ có một thực phẩm.
Tính tổng hòa của bữa cơm của người Việt Nam còn được thể hiện qua cách ăn. Các món ăn thường được dọn ra đồng thời trên mâm cơm. Bát cơm hay miếng cơm của mỗi người sẽ có thể gồm cơm, rau, thịt/cá…
Người Việt không ăn theo từng món như người phương Tây, hết món khai vị đến món chính, món tráng miệng. Người Việt "ăn trông nồi, ngồi trông hướng", có nghĩa là mỗi người trong mâm cơm gia đình đều có sự liên kết, phụ thuộc vào nhau, có sự ý tứ và mực thước trong bữa ăn, khác với thói quen ăn theo "suất" của các nước phương Tây.
Do đó, bữa cơm gia đình là sự tổng hòa của việc ăn uống, giao lưu, thể hiện tình cảm giữa các thành viên trong gia đình.
Bữa ăn truyền thống của người Việt Nam là sự thể hiện một cách khoa học và là nét văn hóa ẩm thực mang đậm chất phương Đông.
Không có một loại thực phẩm nào ở tự nhiên có đầy đủ các loại vi chất cần thiết của cơ thể hoặc có thể có nhiều loại vi chất nhưng ở hàm lượng khác nhau. Như vậy ta thấy, để đảm bảo nhu cầu vi chất thiết yếu của cơ thể, việc đa dạng các loại thực phẩm, kết hợp thực phẩm nguồn gốc động vật với thực vật là cần thiết.
Do đó, duy trì bữa ăn truyền thống của người Việt, tổ chức bữa ăn gia đình cần đảm bảo dinh dưỡng cân đối cho tất cả các thành viên của hộ gia đình là một trong những giải pháp tự nhiên, dễ thực hiện nhưng mang lại hiệu quả nhất để dự phòng thiếu vi chất cho tất cả các thành viên trong gia đình.
Một chế độ ăn tăng cường rau xanh, trái cây và các thực phẩm tự nhiên, hạn chế các loại thực phẩm chế biến sẵn, đồ uống đóng chai, duy trì lối sống năng động, tích cực đang được khuyến nghị rộng rãi trên toàn cầu nhằm dự phòng các rối loạn có liên quan đến dinh dưỡng trong đó có thiếu vi chất dinh dưỡng.
TS Hoàng Thị Đức Ngàn
Viện Dinh dưỡng Quốc gia