Trong phim, lần đầu Quỳnh Kool đóng cặp với B Trần. Những tập đầu của phần 2 lên sóng cho thấy hai diễn viên phối hợp ăn ý, thể hiện cuộc hôn nhân hạnh phúc khiến nhiều người mơ ước. Tuy nhiên, với bản tính của Tùng cùng sự xuất hiện của cô hàng xóm và cũng là tình cũ Anh Thư, khán giả dự đoán không sớm thì muộn anh chàng sẽ đi quá giới hạn.
Chia sẻ trên VTV mới đây, B Trần nói đóng vai Tùng là bước trở lại khó khăn với anh vì khá lâu không đóng phim. Cùng với đó nam diễn viên vào vai Tùng lúc trưởng thành trong khi tính cách nhân vật đã được hoàn thiện và định hình sẵn từ giai đoạn nhân vật còn trẻ do Trần Nghĩa đóng. Vì thế B Trần phải dựa theo tính cách vai Tùng thời trẻ rồi biến hóa thành nhân vật khi trưởng thành.
"Đây là phim truyền hình dài đầu tiên tôi làm thể hiện tình cảm và có rất nhiều thứ mới mẻ với bản thân mình, từ cách diễn và nhiều tình tiết gay cấn, cảnh hơi nhạy cảm một chút nên khó khăn rất nhiều", B Trần chia sẻ.
Còn Quỳnh Kool tâm sự: "Có lẽ áp lực lớn nhất với Quỳnh ở thời điểm hiện tại là vừa phải làm me, làm vợ mà hai thiên chức này Quỳnh chưa được trải nghiệm ngoài đời".
Trước khi nhận vai Nguyệt, Quỳnh Kool cho biết đã phải xem và tìm hiểu nhiều phim về gia đình, về hôn nhân. Về cách dạy con thì nữ diễn viên sinh năm 1995 đã có chút kinh nghiệm từ khi đóng vai Hạnh trong Đừng làm mẹ cáu.Quỳnh Kool nói vào vai một người vợ, người mẹ nên cô phải trau dồi nhiều kiến thức để đem đến sự chân thật nhất cho nhân vật.
Quỳnh An
Tác giả Ostler lập luận rằng các đặc điểm ngôn ngữ thực sự tạo ra khác biệt, với mục tiêu lý giải nguyên nhân khiến một ngôn ngữ trở nên quan trọng, có thể lan truyền xa và tồn tại lâu dài. Đồng thời, ông bàn về mối liên hệ giữa ngôn ngữ với chính trị, tôn giáo, thương mại, xã hội, văn hóa… Ông so sánh các ngôn ngữ ở cấp độ vĩ mô dựa trên các khía cạnh lịch sử nhiều hơn là đi vào chi tiết các vấn đề chính thể của ngôn ngữ như ngữ pháp hay âm vị học.
Trong sách, tác giả xem xét đến tiếng Akkad, tiếng Aramaic và tiếng Ảrập, những ngôn ngữ Semitic Tây nối tiếp nhau trong các nền văn minh và đế chế ở Trung Đông, xem xét song song tiếng Trung Quốc và tiếng Ai Cập, như phương tiện của các truyền thống văn hóa có uy tín lớn. Ngoài ra, sách cũng bàn về tiếng Phạn, tiếng Hy Lạp, tiếng Celt, tiếng La Mã, tiếng Đức, tiếng Slav...
Hai chương ngắn chuyển tiếp giữa phần 1 và phần 2 của sách lần lượt nói về lần cáo chung thứ nhất và thứ hai của tiếng Latin khi nó không còn độc quyền ở châu Âu trong học thuật và khi nó chỉ còn trong kinh sách, không được sử dụng trong giao tiếp hằng ngày.
Trong thời kỳ hiện đại, tác giả bàn về tiếng Tây Ban Nha ở Tân Thế giới, về tiếng Bồ Đào Nha, tiếng Hà Lan, tiếng Pháp và tiếng Nga, như một sự tương phản với lịch sử của tiếng Anh.
Sách khép lại với khảo sát về 20 ngôn ngữ hàng đầu, đồng thời tóm tắt về quá khứ, hiện tại và các yếu tố tiềm năng trong tương lai ảnh hưởng đến sự lan truyền của các ngôn ngữ.
Điểm thú vị của sách nằm ở việc bàn luận về lịch sử ngôn ngữ của nhân loại dưới góc nhìn bao quát hơn, gồm cả lịch sử cụ thể của các ngôn ngữ riêng lẻ và mối quan hệ giữa các ngôn ngữ với nhau, cũng như sự liên kết giữa ngôn ngữ và lịch sử loài người.
Cuốn sách rất phù hợp cho những độc giả muốn có cái nhìn tổng quan về lịch sử phát triển và thăng trầm của những ngôn ngữ lớn trên toàn thế giới, hay muốn biết về nguồn gốc xuất xứ - quan hệ "họ hàng" của những ngôn ngữ thông dụng như: tiếng Anh, tiếng Trung, tiếng Tây Ban Nha.