Mặc dù có vẻ ngoài rắn chắc, xương là một mô hoạt động, liên tục thay đổi và tu sửa. Bản thân xương chứa ba loại tế bào chính kiểm soát quá trình này: nguyên bào xương (tạo xương mới), tế bào hủy xương (giúp duy trì xương) và tế bào hủy xương (phân hủy xương).
Ung thư xương xuất phát từ các thành phần của xương: tế bào tạo xương, tế bào tạo sụn và tế bào liên kết của mô xương. Bệnh có độ ác tính cao, di căn sớm. Ung thư xương có thể nguyên phát hoặc do di căn từ nơi khác đến (chủ yếu từ vú, phổi..).
Triệu chứng cảnh báo ung thư xương
Theo Bệnh viện Ung bướu Nghệ An, tổn thương do ung thư xương chủ yếu ở đầu dưới xương đùi và trên đầu xương chày, nghĩa là hai đầu xương chi dưới gần khớp gối. Vị trí ít gặp hơn là đầu trên xương đùi và đầu trên xương cánh tay. Các xương dẹt hay bị ung thư là xương chậu và xương bả vai.
Dưới đây là các triệu chứng thường gặp của ung thư xương:
- Đau: đau là triệu chứng khởi đầu hay gặp nhất. Đau mơ hồ ở xương rồi sớm thể hiện đau rõ từng đợt ngắn, rất khó chịu. Giai đoạn muộn đau liên tục, bệnh nhân kêu rên, kém ăn, mất ngủ, dùng thuốc giảm đau thông thường và một số thuốc kháng viêm giảm đau hầu như không có tác dụng. Một số bệnh nhân lúc đầu từ chối điều trị, sau đành phải chấp nhận phẫu thuật vì đau dữ dội không thể chịu nổi
- Khối u: Có thể xuất hiện trước, đồng thời hoặc sau triệu chứng đau, lúc đầu u là một đám chắc, đẩy lùi bề mặt da, bờ không rõ, sờ nắn không đau, về sau to nhanh làm biến dạng vùng có u. U xâm lấn nhiều tổ chức phần mềm, nổi rõ các mạch máu dưới da và tân tạo các mạch máu nhỏ, màu sắc da trở nên hồng và ấm hơn những nơi khác, mật độ mềm, nơi chắc, nơi căng do máu tụ.
Ở giai đoạn này, hình ảnh lâm sàng rất giống với viêm xương tủy cấp, nếu không thận trọng dễ chỉ định mổ nhầm, ở giai đoạn muộn u có thể xâm lấn nhiều phá vỡ bề mặt da, chảy máu làm cho người bệnh bị bội nhiễm thiếu máu, thể trạng xấu do mất ngủ, ăn uống kém và đau đớn.
- Gãy xương bệnh lý: Ung thư tiêu hủy xương nên có hiện tượng tự gãy xương, một số trường hợp nhầm với gãy xương thông thường.
" alt=""/>Triệu chứng "báo động đỏ" chỉ điểm ung thư xươngTheo Medical News Today, 3 đột biến gen thường liên quan đến ung thư biểu mô tuyến phổi là:
- Đột biến EGFR, biến đổi gen phổ biến nhất ở những người bị ung thư biểu mô tuyến phổi.
- Sự sắp xếp lại gen ROS1, được tìm thấy ở 1% đến 2% những người bị ung thư phổi không phải tế bào nhỏ như ung thư biểu mô tuyến.
- Sự sắp xếp lại gen ALK, một trong những đột biến phổ biến hơn được thấy ở những người không bao giờ hút thuốc, được tìm thấy ở từ 3% đến 13% những người bị ung thư phổi.
Có tới 59% thanh niên mắc bệnh ung thư phổi sẽ có những đột biến gen này và các đột biến gen khác. Đột biến ROS1 và sắp xếp lại gen ALK phổ biến hơn ở những người trẻ tuổi mắc bệnh ung thư phổi.
Các đột biến khác ít phổ biến hơn bao gồm HER2 và BRAF2, cũng có liên quan đến ung thư vú.
Tiền sử gia đình được cho là một yếu tố nguy cơ chính gây ung thư phổi ở người trẻ tuổi. Một đánh giá năm 2017 trên tạp chí Oncology Letters kết luận rằng việc có cha mẹ hoặc anh chị em ruột bị ung thư phổi làm tăng nguy cơ mắc bệnh lên 50% so với những người không có tiền sử gia đình.
Tuy nhiên, những phát hiện vẫn chưa có kết luận chính xác. Trên thực tế, một số nghiên cứu không thể tìm thấy bằng chứng về mối liên hệ gia đình ở những người trẻ tuổi mắc bệnh ung thư phổi. Điều đó cho thấy các yếu tố nguy cơ khác (chẳng hạn như khói thuốc, phơi nhiễm radon trong nhà hoặc ô nhiễm không khí) góp phần vào làm tăng nguy cơ mắc ung thư phổi.