- Chương trình giáo dục phổ thông mới sẽ chú trọng dạy học sinh cách tôn trọng bản quyền của người khác. Ngay từ lớp 4, lớp 5 học sinh sẽ được dạy cách thu thập thông tin; lên các lớp trên, học sinh sẽ biết được cách trích dẫn khi viết bài văn, bài luận khoa học để tránh đạo văn. PGS.TS. Bùi Mạnh Hùng, Điều phối viên chính Ban Xây dựng Chương trình Giáo dục Phổ thông (Bộ GD-ĐT), Thành viên Ban Xây dựng Chương trình môn Ngữ văn chia sẻ với VietNamNet. |
PGS Bùi Mạnh Hùng |
Phóng viên: Thời gian gần đây, câu chuyện đạo văn trong giới khoa học đang được quan tâm. Có ý kiến cho rằng một trong những khởi nguồn của vấn đề này là vì chương trình giáo dục phổ thông (GDPT) hiện hành không chú ý dạy cho người học ngay từ sớm ý thức và những kĩ năng liên quan. Vậy, trong chương trình GDPT mới học sinh được dạy ý thức tôn trọng bản quyền và tránh đạo văn như thế nào thưa ông?
PGS.TS Bùi Mạnh Hùng: Giáo dục cho học sinh tôn trọng bản quyền và tránh đạo văn là vấn đề rất được quan tâm trong chương trình GDPT mới.
Trước hết, nội dung giáo dục này cần được xét trong định hướng chung là giúp học sinh hình thành và phát triển các phẩm chất chủ yếu và năng lực cốt lõi, trong đó có phẩm chất trung thực, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo. Ý thức tôn trọng bản quyền và tránh đạo văn không thể giáo dục tách rời với các phẩm chất và năng lực quan trọng đó.
Đi vào nội dung các môn học cụ thể trong chương trình GDPT mới, có thể thấy vấn đề tôn trọng bản quyền đã được đề cập trong môn Giáo dục Kinh tế và Pháp luật (cấp trung học phổ thông), thể hiện cụ thể ở nội dung "sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ" trong chuyên đề Pháp luật dân sự, một chuyên đề tự chọn cho học sinh lớp 11.
Tuy nhiên, trong chương trình GDPT mới, giáo dục ý thức và kĩ năng tránh đạo văn được thể hiện tập trung nhất ở môn Ngữ văn. Chương trình môn Ngữ văn được thiết kế theo các mạch chính tương ứng với các kĩ năng đọc, viết, nói và nghe. Trong dạy học đọc, viết có dạy học đọc, viết văn bản thông tin.
Các nội dung liên quan đến giáo dục ý thức và kĩ năng tránh đạo văn được thể hiện chủ yếu qua một số yêu cầu cần đạt về tiếp nhận, sử dụng tư liệu khi đọc và viết văn bản thông tin, trong đó có những yêu cầu liên quan đến trích dẫn.
Ông có thể chia sẻ kỹ hơn về mục đích của những yêu cầu cần đạt này trong chương trình GDPT mới là gì được không?
- Chương trình GDPT mới được xây dựng nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam trong bối cảnh đất nước hội nhập ngày càng sâu rộng với thế giới. Giáo dục cho học sinh ý thức và kĩ năng có liên quan đến tôn trọng bản quyền và tránh đạo văn sẽ góp phần đào tạo nên những công dân có khả năng sống và làm việc hướng đến chuẩn mực quốc tế. Tôn trọng kết quả lao động của người khác và biết cách tiếp thu, kế thừa theo đúng quy định và thông lệ không chỉ góp phần tạo nên những sản phẩm sáng tạo mà còn bồi dưỡng cho học sinh tính trung thực, niềm say mê tìm tòi, khám phá cái mới. Quả đúng là tình trạng đạo văn khá phổ biến, ngay cả trong giới học thuật, như đang diễn ra ở Việt Nam có phần là do lâu nay nhà trường của chúng ta chưa quan tâm giúp cho người học hình thành, phát triển ý thức tôn trọng bản quyền và kĩ năng trích dẫn.
Đất nước New Zealand đã dạy học sinh trích dẫn từ cấp tiểu học. Nhiều quốc gia khác cũng rất quan tâm việc dạy cho học sinh kĩ năng này. Vậy chương trình phổ thông mới của Việt Nam sẽ dạy học sinh cách trích dẫn khi viết bài văn, bài luận khoa học ra sao thưa ông?
- Đúng vậy, không chỉ New Zealand mà nói chung các quốc gia phát triển đều chú trọng dạy cho học sinh ý thức và kĩ năng trích dẫn từ rất sớm, chủ yếu là thông qua chương trình môn Ngữ văn (Ngôn ngữ và văn học).
Đặc biệt, nội dung giáo dục này thể hiện rất đậm nét trong các chương trình GDPT của Mỹ.
Chuẩn cốt lõi môn Tiếng Anh (Common Core State Standards) dùng chung cho phần lớn các tiểu bang của Mỹ, trong đó có những tiểu bang lớn như California, Massachusetts, New York, từ lớp 6 đến lớp 12 đều có yêu cầu học sinh tránh đạo văn và tuân thủ các chuẩn mực khi trích dẫn. Thậm chí chương trình GDPT môn Tiếng Anh của riêng Texas (Mỹ) còn yêu cầu học sinh phân biệt giữa trích dẫn và đạo văn ngay từ lớp 3 và lặp lại liên tục yêu cầu này cho đến các lớp trên. Chương trình môn Quốc ngữ cấp THCS của Hàn Quốc cũng có nội dung "nhận thức được tầm quan trọng của nguyên tắc viết và viết với tinh thần trách nhiệm", trong đó có yêu cầu không được đạo văn và phải trích dẫn đúng quy tắc.
Tại Việt Nam, tuy không đề cập đến nội dung "tránh đạo văn" một cách hiển ngôn, nhưng chương trình GDPT mới cũng đã có một bước tiến đáng kể trong nhận thức về tầm quan trọng của việc giáo dục cho học sinh vấn đề này, tiếp cận với chương trình GDPT của các quốc gia tiên tiến.
Cụ thể, từ lớp 4 và lớp 5, chương trình mới sẽ yêu cầu học sinh có ý thức và kĩ năng thu thập, sử dụng tư liệu, thông tin cho bài viết. Từ lớp 6 đến lớp 12, các yêu cầu cần đạt có
liên quan đến thu thập, sử dụng tư liệu, thông tin ngày càng cao hơn và cụ thể hơn. Ở một số lớp, có những nội dung liên quan trực tiếp đến việc giáo dục cho học sinh ý thức và kĩ năng tránh đạo văn.
Ở lớp 7 có yêu cầu nhận biết được các yếu tố của một văn bản thông tin như cước chú, tài liệu tham khảo.
Từ lớp 9 đến lớp 12, tất cả các lớp đều có yêu cầu viết được một báo cáo thuyết minh về một vấn đề tự nhiên hoặc xã hội, có trích dẫn, cước chú, chú thích nguồn trích dẫn và tài liệu tham khảo.
Để đạt được những yêu cầu về đọc và viết đó, chương trình cũng "cài đặt" một số kiến thức tiếng Việt tương ứng như là công cụ để đọc và viết, chẳng hạn: Ở lớp 9 có cách dùng dấu câu khi dẫn trực tiếp và gián tiếp; ở lớp 10 có cách chú thích trích dẫn và ghi cước chú; ở lớp 11 có cách trình bày tài liệu tham khảo trong một tiểu luận hay báo cáo thuyết minh; ở lớp 12 có những quy định khi trích dẫn.
Theo cách tiếp cận của chương trình GDPT mới, tất cả các nội dung giáo dục trong chương trình các môn học ở các lớp đều phải hướng đến và kết nối với những phẩm chất chủ yếu và năng lực chung được quy định trong chương trình GDPT tổng thể. Qua những nội dung giáo dục chuyên môn (Ngữ văn, Lịch sử, Địa lí, Toán, Vật lí, Hóa học, Sinh học, Tin học, Công nghệ, Nghệ thuật,…), học sinh không chỉ được rèn luyện các năng lực chuyên môn mà còn được hình thành, phát triển các phẩm chất chủ yếu và năng lực chung.
Với tinh thần đó, khi thiết kế bài dạy để đạt đến các mục tiêu đọc, viết nói trên, sách giáo khoa và giáo viên phải giúp học sinh hiểu được vấn đề pháp lí và đạo đức đằng sau những quy định về trích dẫn.
Nghĩa là học sinh không chỉ được học kĩ năng trích dẫn mà còn được bồi dưỡng phẩm chất và hoàn thiện các quan niệm về giá trị sống thông qua kĩ năng được học.
Hiện tượng văn mẫu, sách tham khảo, thậm chí bây giờ còn có giáo án mẫu là những tác nhân thúc đẩy thói quen sao chép, không khuyến khích sáng tạo.Theo ông làm thế nào để ngăn chặn hiện tượng này?
- Cần phân biệt hai loại "mẫu".
Trong dạy học, giáo viên làm mẫu hay cho học sinh xem mẫu và học sinh bắt chước theo mẫu là một công đoạn cần thiết, nhất là ở các lớp dưới của giáo dục phổ thông, bởi yêu cầu học sinh "sáng tạo" từ đầu đến cuối thì không chắc đó là hoạt động dạy học đúng nghĩa.
Học sinh cần phải được giáo viên hỗ trợ từng bước, từ tham khảo mẫu, làm theo mẫu, rồi từng bước đi đến sáng tạo.
Tuy nhiên, nếu để cái "mẫu" đó chi phối toàn bộ việc học, học sinh chỉ biết rập khuôn làm theo mẫu thì đó là chuyện khác.
Chúng ta cần khắc phục cho được lối dạy học rập khuôn theo mẫu này. Riêng về tình trạng viết văn theo kiểu sao chép, để khắc phục, trước hết cần giúp học sinh biết cách viết.
Lâu nay chúng ta chưa chú trọng, hay nói đúng hơn chưa có giải pháp hiệu quả để dạy cho học sinh biết viết, vì vậy các em dễ sa vào sao chép. Sao chép vì không tự viết được. Thứ hai, cần thay đổi cách kiểm tra đánh giá.
Nếu tập trung vào đánh giá năng lực, nhất là năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo, chứ không kiểm tra khả năng ghi nhớ và lặp lại của người học thì học sinh phải thay đổi cách học, không thể và không dám sao chép.
Tuy đổi mới kiểm tra đánh giá là một quá trình dài và khó khăn, nhưng nếu không đổi mới được lĩnh vực này thì không thể đổi mới giáo dục, trong đó có giải quyết tình trạng sao chép văn mẫu.
Thứ ba, khuyến khích những ý tưởng sáng tạo của học sinh ngay trong quá trình dạy học.Không áp đặt học sinh phải theo sách giáo khoa và giáo viên mà để một "không gian mở" cho các em thể hiện suy nghĩ, chủ kiến và giải quyết vấn đề theo cách riêng của các em miễn là có căn cứ hợp lí và phù hợp với những giá trị đạo đức phổ quát.
Chính kiểu giáo dục truyền thụ kiến thức một chiều đã góp phần dung dưỡng cho sao chép.
Thứ tư, có những hình thức giáo dục ý thức về bản quyền và răn đe đạo văn từ sớm, ngay trong nhà trường phổ thông.
Việc dạy một đằng, hiện thực một nẻo trong môi trường giáo dục hiện nay đang gây ra nhiều hệ lụy. Vậy chương trình mới sẽ giải quyết việc này như thế nào thưa ông?
- Đấy là một vấn đề lớn. Ở nhiều nước, môi trường giáo dục được coi là một thành tố quan trọng của quy trình triển khai thực hiện chương trình GDPT. Chẳng hạn, Phần Lan đặc biệt coi trọng thành tố này và họ có hẳn một mục về môi trường học tập trong chương trình GDPT quốc gia. Chương trình GDPT mới quy định các phẩm chất chủ yếu: yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm và các năng lực cốt lõi, trong đó có các năng lực chung: tự chủ và tự học, giao tiếp và hợp tác, giải quyết vấn đề và sáng tạo.
Khác với các năng lực chuyên môn, các phẩm chất và năng lực chung chủ yếu được hình thành và phát triển không phải thông qua những kiến thức chuyên môn cụ thể mà thông qua phương pháp, cách thức tổ chức các hoạt động dạy học trong lớp và môi trường giáo dục. Học sinh được hình thành và phát triển phẩm chất nhân ái, trung thực hay năng lực hợp tác một cách thuận lợi nếu lớp học, nhà trường, gia đình, xã hội mà các em học tập và sinh sống thấm đẫm những giá trị ấy.
Tình trạng "dạy một đằng, hiện thực một nẻo" đúng là gây nhiều khó khăn, trở ngại cho giáo dục. Nghịch lí này không chỉ riêng ở nước ta, nhưng ở ta gần đây có nhiều biểu hiện đáng lo ngại hơn. Nhà trường đang bị "lấm bùn" từ nhiều phía. Tuy vậy, nhà trường vẫn có sức mạnh của nó. Sức mạnh đó là do sứ mạng khai sáng và khai phóng mà xã hội trao cho.
Tôi nghĩ, thông qua mô hình giáo dục hợp lí, nhà trường sẽ tác động tích cực trở lại đối với xã hội. Mô hình giáo dục mới sẽ góp phần đào tạo nên nguồn nhân lực mới, từng bước khắc phục cái nghịch lí "dạy một đằng, hiện thực một nẻo".
Chúng tôi tin rằng nếu các điều kiện triển khai được đáp ứng thì mô hình giáo dục phát triển phẩm chất, năng lực người học của chương trình GDPT mới sẽ có đóng góp đáng kể vào quá trình này.
Cảm ơn PGS đã trao đổi!
Lê Huyền (thực hiện)
" alt=""/>Chương trình phổ thông mới dạy học sinh chống đạo văn thế nào?
- Với tâm lý thích thể hiện cái tôi, nhiều bạn trẻ thường sử dụng Facebook để “khoe” những hình ảnh và tin nhắn sướt mướt của mình với người yêu. Đôi khi, hành động này trở nên lố và gây tâm lý “nhức mắt” cho cộng đồng mạng.
LTS:Tuổi ô mai trong sáng nhưng nông nổi, bồng bột. Nhiều cô cậu học trò ngày nay có những cách yêu và hiện tình yêu ngày càng bạo dạn: từ những messenger tình tứ, lên mạng xã hội “khoe” ảnh “tình yêu”, hoàng loạt vụ lộ clip sex đến những cái ôm hôn ngay trước cổng trường, trong lớp học hay công viên nhà nghỉ. Thậm chí có bạn chẳng ngại ngần bày tỏ tình yêu với thầy cô. Thực trạng đã đến hồi báo động? |
Lên Face chỉ để khoe ảnh
 |
Các cặp đôi luôn luôn tự chụp ảnh để khoe người yêu của nhau (Ảnh: Phạm Trang) |
Facebook là mạng xã hội có sức lan tỏa rộng lớn và mau lẹ. Vì vậy, với tâm lý thích thể hiện cái tôi cá nhân, các bạn trẻ thường đăng ảnh của mình và người yêu lên Facebook nhằm “khoe” với mọi người rằng “tôi đang yêu”. Ở một mức độ nào đó, điều này không có gì đáng chê trách. Tuy nhiên, hành động này đôi khi trở nên quá đà.
Lướt qua dòng thời gian trên trang Facebook cá nhân của bạn nữ có nick name H.P, học sinh của một trường THPT tại Hà Nội, đập vào mắt là những bức ảnh chụp chung của H.P với người yêu ở mọi địa điểm, lúc đi chơi, đi ăn, mua sắm, có khi cả lúc…trên giường.
Lúc nào cô nàng cũng có thể khoe những bức ảnh yêu đương ấy, có khi cả album gồm cả trăm bức ảnh thấy độc khuôn mặt của hai người, lúc cười, lúc phùng má kiểu “kute”, lúc lại…thay phiên nhau hôn.
Một điều đặc biệt là tình cũ hay tình mới, cô nàng đều nhiệt tình cập nhật như để khoe “thành tích” yêu đương. Ảnh chụp chung với người mới lại càng ở mức độ thân thiết và “thoáng hơn”, như một thông điệp mà cô muốn nhắn nhủ với anh chàng người yêu cũ đã bỏ rơi mình rằng “không có anh, em vẫn sống tốt”.
Ban đầu, với những bức ảnh này, bạn bè của H.P còn hay “like” và “comment” ủng hộ. Nhưng khi được đà, mật độ, tần suất những bức ảnh của cặp tình nhân tuổi “teen” này càng tăng lên và ngày càng “nhạy cảm” hơn thì bạn bè của cô đã cảm thấy…phát ớn.
Thời gian gần đây, không ít trường hợp những hình ảnh “nhạy cảm” của các cặp đôi được tung lên mạng và nhận cũng không ít sự chỉ trích của dư luận. Đó là còn chưa kể những hệ lụy đối với các cô gái trẻ lỡ “gật đầu” chụp ảnh nhạy cảm với bạn trai, dù chưa xác định chuyện hôn nhân sau này.
Những dòng “status” tình tứ, sướt mướt
Đọc những dòng tâm sự của các bạn trẻ sẽ biết ngay được ai đang yêu, yêu ai, họ đi đâu và làm gì… Đặc biệt là đối với các bạn còn đang ở độ “teen” thì những tin nhắn, những dòng “status” kia mới thực sự tình tứ và sướt mướt.
Có những trang Facebook của các cô nàng còn mặc đồng phục cấp 3 dày đặc những dòng tin nhắn tràn ngập tình thương mến thương với “ck yêu” (chồng yêu) của mình. Những kiểu ký hiệu như “ck, vk yêu, ...” là ngôn ngữ mà các bạn trẻ này dùng để tăng mức độ yêu thương đối với người yêu của mình.
 |
Những tin nhắn tình tứ trên facebook. (Ảnh chụp lại từ màn hình). |
Trang Facebook của anh chàng K. luôn xuất hiện những tin nhắn tình tứ của cô bạn gái sinh năm 1995. Không ngày nào là Facebook của cậu lại không có thông báo, có khi một ngày nhận được cả 5, 6 tin nhắn từ người yêu: khi chào buổi sáng, khi ngồi trong lớp thấy chán học lại nhắn, khi đi học về, lúc đi ngủ, mất ngủ…
Những dòng tin nhắn kiểu như: “Chồng ơi, vợ về nhé, vợ nhớ chồng lắm…Hai tuần nữa vợ sẽ lên với yêu”....
Dường như cứ mở mắt ra thì hành động đầu tiên của cô bạn gái K. là lên Facebook nhắn nhủ yêu thương cho “anh yêu, chồng yêu”, không chỉ là nhắn cho người yêu mà còn là muốn thể hiện cho cả “thiên hạ” biết chúng tôi đang yêu như thế nào.
Vì những dòng tin nhắn hay những bức ảnh yêu đương của các cặp đôi trẻ luôn ở trạng thái “public” nên những người quen hay bạn bè của họ khá khó chịu khi suốt ngày bị “đập” ngay vào mắt, nhất là những tin nhắn quá sướt mướt hay những bức hình quá nhạy cảm.
Yêu thương, hạnh phúc là những điều nên “khoe”, đáng được “khoe”, nhưng khi sự thể hiện trở nên quá đà, quá lố thì lại gây ra sự phản cảm đối với người khác?. Biết giữ những yêu thương của cá nhân khéo léo trong một chừng mực nào đó khi chia sẻ trên các trang mạng xã hội cũng là một cách bạn trân trọng những người khác.
Nghiên cứu quốc gia về vị thành niên và thanh niên lần 1 (công bố năm 2005) cho thấy tuổi quan hệ tình dục lần đầu ở nam nữ thanh niên Việt Nam là hơn 19 tuổi. Điều tra lần 2 (công bố năm 2010), độ tuổi này hạ xuống còn 18.
Tuy nhiên thăm khám lâm sàng thực tế và khảo sát trên các trẻ vị thành niên, thanh niên có thai ngoài ý muốn tại Bệnh viện Phụ sản Hùng Vương, Bệnh viện Từ Dũ và Trung tâm Sức khỏe sinh sản TP.HCM cho thấy có những trường hợp quan hệ tình dục (tự nguyện) từ 10-12 tuổi.
Cũng trên khảo sát này, tuổi quan hệ tình dục lần đầu của các em là 14 tuổi, sớm hơn rất nhiều so với điều tra quốc gia. |
Linh Nguyễn – Trang Phạm
" alt=""/>Nhức mắt chuyện yêu trên mạng của giới trẻ