
Ông nhất quyết phải đổi mới, “đưa giáo dục đại học của Singapore đạt chuẩn quốc tế”, “đào tạo nguồn nhân lực đẳng cấp quốc tế”. Ông yêu cầu Bộ trưởng Giáo dục nếu làm được như thế thì nhận chức. Thực tế cho thấy, Singapore đã đưa ra nhiều chính sách khuyến khích, thúc đẩy hoạt động hợp tác quốc tế và đầu tư nhiều nguồn lực cho hoạt động quốc tế hóa giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại học.
Singapore đã thành công với các chính sách giáo dục quốc gia theo tiêu chuẩn toàn cầu, đáp ứng được yêu cầu chung của nhiều nước trên thế giới, bằng cấp được công nhận trên toàn thế giới.
Học bằng tiếng Anh càng sớm càng tốt
Ông Lý Quang Diệu cho rằng ngôn ngữ là chìa khóa để tiếp thu kiến thức. Nếu không thể hiểu một ngôn ngữ, học sinh sẽ không thể tiếp nhận thông tin hay kiến thức bằng chính ngôn ngữ đó. Bởi vậy, bên cạnh tiếng mẹ đẻ, học sinh Singapore cần học bằng tiếng Anh càng sớm càng tốt.
Theo lãnh đạo đảo quốc, tiếng mẹ đẻ kết nối người dân Singapore với nguồn gốc, văn hóa và di sản tinh thần của dân tộc, còn tiếng Anh là ngôn ngữ làm việc giúp kết nối với thế giới.
Theo đó, chính sách song ngữ học sinh học bằng cả tiếng Anh cùng tiếng mẹ đẻ trong chương trình giáo dục phổ thông được chính thức công nhận vào năm 1966. Singapore đã hưởng lợi rất nhiều từ chính sách song ngữ, cho thấy tầm nhìn xa trông rộng và sáng suốt của ông Lý Quang Diệu.
Cùng với đó là chính sách đầu tư tập trung nâng từng đại học lên đạt chuẩn quốc tế với mục tiêu đào tạo phù hợp yêu cầu phát triển từng giai đoạn của đất nước.
Năm 1965, chính phủ tập trung cao độ cho Đại học Quốc gia Singapore để đào tạo nguồn nhân lực đa ngành có chất lượng, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Năm 1985, tập trung xây dựng Đại học Công nghệ Nam Dương để đào tạo nhân lực khoa học kỹ thuật, giúp chiếm ưu thế trong các lĩnh vực công nghệ mới, công nghệ mũi nhọn. Từ năm 2000 đến nay, đảo quốc đầu tư tập trung cho Đại học Quản lý SMU để đào tạo các nhà quản lý.
Mời các trường đại học hàng đầu thế giới đến Singapore
Năm 2002, Singapore khởi xướng Sáng kiến Nhà trường toàn cầu với mục đích hợp tác với các trường đại học hàng đầu thế giới, mời họ đến Singapore.
Ngay từ thời điểm đó, Singapore là điểm đến của các đại học hàng đầu thế giới như Viện công nghệ Massachusetts (MIT), Đại học Chicago, Đại học Pennsylvania... Các trường trong nước cũng được khuyến khích, hối thúc mạnh mẽ để hướng tới tiêu chuẩn hàng đầu thế giới và thích ứng với mô hình cạnh tranh.
Đảo quốc cũng triển khai các chế độ đãi ngộ hấp dẫn để chiêu mộ các nhà khoa học, chuyên gia, giảng viên hàng đầu từ khắp nơi trên thế giới, thực hiện các nghiên cứu mũi nhọn tầm cỡ quốc tế, chuyển giao tri thức, công nghệ nhằm nâng Singapore lên vị trí hàng đầu thế giới về giáo dục.
Việc tuyển chọn kỹ lưỡng trên phạm vi toàn cầu để tìm kiếm những người tài giỏi đáp ứng tiêu chuẩn để bổ nhiệm làm lãnh đạo, quản trị ở các trường đại học đạt chuẩn quốc tế được áp dụng. Khi nguồn trong nước chưa có cán bộ đủ trình độ làm giám đốc, hiệu trưởng trường đại học đạt chuẩn quốc tế, Singapore chiêu mộ nhân tài trên thế giới chứ không hạ chuẩn.
Điển hình là Đại học Quản lý Singapore (SMU) thuê cả Giám đốc và Phó giám đốc từ Mỹ và Anh. Người được thuê ngoài việc quản trị trường theo chuẩn quốc tế, có trách nhiệm truyền nghề cho người kế cận với 2 nhiệm vụ rõ ràng. Một là, chỉ định và đào tạo, bồi dưỡng người đủ năng lực để tiếp quản công việc này. Hai là, chuyển giao toàn bộ quy trình công nghệ quản trị cho người được lựa chọn kế nhiệm.
Quốc tế hóa hai chiều
Với tầm nhìn trở thành đại học toàn cầu hàng đầu góp phần định hình tương lai, Đại học Quốc gia Singapore đang vươn lên trở thành đại học xuất sắc và đẳng cấp thế giới, tiên phong trong đổi mới và quốc tế hóa với con đường hai chiều, quốc tế hóa tại chỗ và quốc tế hóa ở nước ngoài.
Quốc tế hóa tại chỗ thể hiện ở số sinh viên quốc tế. Bộ Giáo dục đã tài trợ mạnh tay cho những sinh viên giỏi người nước ngoài đến học. Hiện tại, rất đông du học sinh đến Singapore và nước này cũng là một trong những trung tâm đào tạo uy tín của thế giới.
Chiều quốc tế hóa ở nước ngoài, Đại học Quốc gia Singapore thiết kế và thực hiện các chiến lược khác nhau, như các chương trình trao đổi sinh viên, thực tập ở nước ngoài, liên kết/song bằng, chương trình mùa hè, thực tập sinh... 50% sinh viên Đại học Quốc gia Singapore có trải nghiệm giáo dục nước ngoài, 20% có 1 học kỳ hoặc nhiều hơn ở nước ngoài.
Các chương trình trao đổi sinh viên, điểm trường ở nước ngoài góp phần thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp trong học tập và giảng dạy, gia tăng quốc tế hóa. Hàng năm, Đại học Quốc gia Singapore có các chương trình trao đổi sinh viên với hàng trăm trường trên thế giới. Đặc biệt, đến nay, họ có hơn 10 điểm trường tại Mỹ, Anh, Đức, Thụy Sĩ, Israel... nhằm thúc đẩy hoạt động khởi nghiệp của sinh viên.
Ở các điểm trường này, sinh viên năm thứ 3 thực tập tại các công ty khởi nghiệp vào ban ngày và tham gia các khóa học về khởi nghiệp vào buổi tối tại các trường đối tác. Sang năm thứ 4, sinh viên trở lại Đại học Quốc gia Singapore, ở ký túc xá và cùng sinh viên ở nhiều quốc gia khác nhau thực hiện các ý tưởng kinh doanh.
Với quan điểm sinh viên không chỉ học kiến thức sách vở mà còn cần học cách thích ứng với nền văn hóa của các dân tộc khác, Đại học Quốc gia Singapore thường xuyên tổ chức các khóa thực tập, trải nghiệm giúp sinh viên làm quen với môi trường kinh tế - văn hóa - xã hội đa dạng tại các khu vực, quốc gia khác nhau.
Trong môi trường như vậy, sinh viên học cách ứng phó với sự thay đổi và khác biệt của cuộc sống. Khởi đầu từ năm 2010, các chương trình này đã mở rộng tới nhiều quốc gia như Myanmar, Costa Rica, Brazil, Thái Lan, Ả Rập Xêút, Indonesia…
Theo một cuộc khảo sát toàn cầu trên 35 quốc gia, giáo viên tại Singapore có thời gian làm việc dài thứ hai sau New Zealand. Tuy nhiên, họ lại được trả gần gấp đôi so với mức lương giáo viên tự cho là công bằng với họ.
" alt=""/>Singapore chiêu mộ nhân tài trên thế giới làm lãnh đạo trường đại họcHiện tất cả các em đã được xuất viện. Theo cô Thường, các em có thể đã hít phải một loại khí độc từ đồ chơi nói trên, tuy nhiên, phía bệnh viện chưa xác định được loại độc tố.
Hiệu trưởng nhà trường thông tin thêm, phụ huynh của nam sinh mang đồ chơi vào trường cho biết, khi mua đồ ăn sáng cho con ở cổng trường, họ đã nhầm lẫn đó là đồ ăn.
Chủ tịch UBND phường Lê Mao (TP Vinh) Nguyễn Tam Kỳ cho biết, đã lập biên bản sự việc, tạm tịch thu những sản phẩm tương tự của cửa hàng trước cổng trường vì không rõ nguồn gốc xuất xứ.
Hiện Công an phường đã lập biên bản, mời phụ huynh và những người có liên quan đến làm việc.
Việc đánh giá theo Chương trình giáo dục phổ thông 2006 trước đây quy định học sinh có bất kỳ môn nào có điểm trung bình 2,0 bị xếp loại kém, phải ở lại lớp cho dù có học trung bình, khá các môn còn lại. Bên cạnh đó, học sinh có điểm trung bình 1 môn dưới 3,5 thì xếp loại yếu,phải thi lại, nếu vẫn không đạt cũng sẽ "đúp".
Giáo viên và cả phụ huynh mặc định những em xếp loại yếu, kémlà học sinh “dốt”, không xứng đáng lên lớp, cần rèn luyện lại.
Sau mỗi năm học, có nơi lấy những học sinh “dốt” để “bêu” trước trường lớp, học sinh khác phải cố gắng mà tránh những "tấm gương xấu" này.
Cứ thế, các em trở thành nạn nhân của việc chê bai, mắng mỏ vì học “dốt” ảnh hưởng đến lớp, đến trường, đến danh dự gia đình, làm mất mặt xóm làng… Có em vì áp lực gia đình, xã hội đã chọn cho mình cái chết tức tưởi.
Tôi cho rằng việc xếp loại học sinh giỏi, khá, yếu, kémlà một sai lầm trong đánh giá. Điều này cũng là nguyên nhân gây ra bệnh thành tích “thâm căn cố đế” trong ngành giáo dục, là nguyên nhân khiến học sinh phải lao đầu vào học thêm “tối mặt tối mũi”, chạy đua điểm số…
Một học sinh có thể học yếu 1, 2 phân môn nhưng vẫn học được các môn khác, vẫn đủ năng lực, trí tuệ tiếp tục học ở những năm tiếp theo. Do đó, việc đánh giá học sinh yếu, kémgiống như tìm học sinh “dốt” là còn không phù hợp.
Ở Chương trình giáo dục phổ thông 2018 đang được triển khai, việc đánh giá có một bước chuyển đáng kể và tích cực, theo cách mà một số nước có nền giáo dục tiên tiến trên thế giới thực hiện. Đó là chuyển từ đánh giá kiến thức sang đánh giá năng lực và phẩm chất.
Cách đánh giá này không còn phân biệt học sinh này và học sinh kia. Một em có năng lực này nhưng có thể không có năng lực khác, không nhất thiết phải toàn diện như các chương trình trước đây.
Ví dụ, học sinh có thể không có năng lực toán học nhưng có năng lực văn học, năng lực xã hội, giao tiếp, cảm thụ âm nhạc…
Dạy học theo năng lực chính là tìm ra điểm mạnh của người học để phát huy, chấp nhập học sinh có thể chưa có một số năng lực. Dạy học hiện nay là đi tìm người giỏi, phát huy thế mạnh chứ không phải tìm người “dốt”.
Dù vậy, việc đánh giá của Chương trình giáo dục phổ thông 2018 theo thông tư 22/2021/TT-BGDĐT vẫn còn có điểm số, xếp loại học tập học sinh ở 4 mức tốt, khá, đạt, chưa đạt; vẫn khen thưởng học sinh loại xuất sắc, giỏi.
Còn cho điểm, còn xếp loại… là còn so sánh học sinh này với học sinh khác, còn chạy theo thành tích, còn tìm học sinh “dốt”, không phù hợp đánh giá theo năng lực, rất thiệt thòi cho các em.
Theo tôi, đến giai đoạn này, phải chấm dứt không còn xem học sinh nào là “dốt”. Và cách tốt nhất là bỏ điểm số, bỏ xếp loại, bỏ thành tích.
Mỹ Hằng
Ban Giáo dục Báo VietNamNet mở diễn đàn "Có học sinh dốt thật không?", mong nhận được những ý kiến đóng góp của độc giả. Địa chỉ email của chúng tôi: [email protected]. Xin chân thành cảm ơn! |