Tái cấu trúc đầu tư giáo dục, tại sao không?
Cô gái có gương mặt đẹp và nụ cười thanh lịch ấy là Bùi Thị Hoàng Oanh, từng giành ngôi vị Hoa khôi các tỉnh phía Nam, sau đó xuất sắc trở thành Á hậu 1 Hoa hậu Việt Nam.
- Sau gần 20 năm, sự trưởng thành lớn nhất của Á hậu Hoàng Oanh ngày ấy và bây giờ là gì?
Hai mươi năm qua, tôi trau dồi kiến thức, tích lũy và hiểu về cuộc sống nhiều hơn, đôi lúc cuộc sống không suôn sẻ nhưng tôi vượt qua và nhìn lại những thành quả mình đạt được thật hạnh phúc. Tôi chín chắn, không nghĩ gì nói đó mà suy nghĩ kỹ càng.
Ngày được gọi tên là Á hậu, tôi không biểu hiện cảm xúc nhiều vì một phần khá tôi còn khá nhỏ, phần khác bất ngờ vì không nghĩ một cô bé đơn giản như tôi lại là Á hậu của một cuộc thi danh giá.
Thời khắc đăng quang, tôi vừa tự hào, vừa sung sướng, đồng thời muốn bày tỏ sự biết ơn tới cha mẹ, bạn bè, ban giám khảo và người hâm mộ. Nhưng vốn tính ít nói và ít biểu lộ cảm xúc, tôi chui vào một góc, thu mình lại. Ngay cả người nhà cũng không biết tôi đăng quang bởi tôi vốn không thích sự ầm ĩ hay quá nhiều người biết đến.
Á hậu 1 Hoa hậu Việt Nam 2002 - Bùi Thị Hoàng Oanh.
- Đưa ra quyết định du học và kết hôn, Hoàng Oanh có phải đắn đo suy nghĩ nhiều?
Tất nhiên là có chứ, thời điểm đó hình ảnh của tôi phủ sóng khá nhiều trên các phương tiện truyền thông của những nhãn hàng lớn nhưng chắc tôi lại thích sự ổn định hơn (cười). Thời điểm đó, có lần tôi còn định thi tiếp viên hàng không nhưng cuối cùng quyết định sang Singapore học về quản lý.
Năm 2008, tôi về Việt Nam làm đám cưới, sau đó lại phải quay lại Singapre để làm luận án tốt nghiệp. Đến đầu năm 2009, tôi quay lại Việt Nam và tiếp tục công việc. Mọi thứ đều được lên kế hoạch và sắp xếp ổn thoả. Sau thời gian tốt nghiệp ở Singapore về Việt Nam, tôi làm quản lý công ty riêng của gia đình. Còn hiện tại, tôi đang làm công việc quản lý nghệ sĩ thuộc VTVCab.
Hoàng Oanh ở Hoa hậu Việt Nam 2002:
- Sức hút của các cuộc thi sắc đẹp ở Việt Nam rất lớn và hào quang với những danh hiệu cũng không nhỏ, khi lựa chọn thay đổi, chị có điều gì tiếc nuối?
Tôi là một người thích nghi tốt. Lựa chọn cuộc sống hạnh phúc bên gia đình là lựa chọn "biết đủ là đủ", vậy nên tôi không mất quá nhiều thời gian để làm quen với nếp sống sinh hoạt mới. Cuộc sống nào cũng có những “hào quang” của riêng mình.
Riêng với tôi, khái niệm về sự hối tiếc không tồn tại, tôi sẽ luôn tự chịu trách nhiệm với những gì bản thân đã lựa chọn. Tôi thấy mình may mắn còn không hết chứ. Ở thời điểm đó, giành được ngôi vị Á hậu có thể nói là một giấc mơ mà nhiều cô gái mong muốn, vì vậy tôi không hối tiếc điều gì cả. Chỉ có điều, thời gian trôi nhanh quá, mới đó đã 20 năm và đến tận bây giờ tôi mới có cơ hội chia sẻ đôi điều cùng khán giả.
- Chị tạo cho người khác cảm giác là người rất cẩn trọng, nguyên tắc, thích sự an toàn, nề nếp và không ồn ào, đều này có đúng không?
Tôi luôn cẩn trọng trong các mối quan hệ, trân trọng những người bạn của mình và có nguyên tắc nghiêm khắc nhất định trong việc giáo dục con cái. Tôi luôn bảo đảm sự an toàn và bình yên cho những người thân của mình. Và đặc biệt bởi vì tôi không thích sự ồn ào nên mọi người hay nhận xét tôi là người khó tính (cười).
- Các nghệ sĩ trong công ty có nhận ra chị khi 20 năm đã trôi qua? Họ nhận xét gì về chị?
Hầu như các bạn đều biết tôi và thường khen tôi dễ thương. Trong công việc, tôi không quá cứng nhắc. Tôi thấy thế hệ trẻ bây giờ giỏi chịu đựng áp lực, sáng tạo và thể hiện cá tính, có bản sắc riêng. Nhờ vậy, nghệ thuật bây giờ rất đa dạng, tính cạnh tranh và phát triển cũng mạnh mẽ. Tôi cũng mong muốn có thể dùng kinh nghiệm, trải nghiệm của bản thân để chia sẻ đến khán giả nhiều hơn.
- Là một người mẹ, chắc hẳn nói về con sẽ là điều hạnh phúc nhất?
Điều hạnh phúc nhất trong cuộc đời tôi chính là bé Niel. Con là nguồn sống, là động lực cố gắng của tôi. Mỗi ngày đi làm về, con thường líu lo kể chuyện về các bạn, về trường lớp. Con luôn ôm hôn và nói yêu tôi. Mỗi lúc như vậy là bao mệt mỏi trong tôi tan biến hết. Từ lúc sinh con đến bây giờ, tôi luôn là người trực tiếp chăm sóc con vì vậy con luôn có cảm giác an toàn bên mẹ.
Thời khắc Niel được sinh ra, tôi hạnh phúc đến phát khóc. Bây giờ, khi con đã lớn hơn, sau khi tan làm về nhà, tôi vẫn dành thời gian dạy con học, cùng con tâm sự mỗi tối.
- Sau gần 20 năm, chị vẫn được khen trẻ trung, bí quyết nào khác để vẫn có được nhan sắc và vóc dáng đẹp?
Tôi luôn cố gắng giữ một nếp sống tốt bằng việc cân bằng những hoạt động tập thể dục và chạy bộ mỗi ngày. Thời gian không chừa một ai nên tôi tự ý thức về việc đầu tư sức khỏe cho bản thân. Chăm sóc cho chính mình cũng là khoản đầu tư bảo hiểm có giá trị.
- Là một người phụ nữ trưởng thành, nhiều trải nghiệm, nhìn những cô gái mới lớn tham gia thi hoa hậu, chị chia sẻ điều gì để họ hiểu đúng về danh hiệu hay sự nổi tiếng?
Thành tựu của tôi không lớn lao để có thể nói là chia sẻ bởi tôi thấy thế hệ trẻ bây giờ có nhiều cơ hội và điều kiện để trau dồi kiến thức hơn. Mặt khác, các em cũng có ê-kíp chuyên nghiệp giúp hoạch định chiến lược, đường hướng. Nếu được, điều duy nhất tôi muốn nhắn nhủ đến các em chính là “Hãy tự tin với cá tính của riêng mình - Be yourself”.
Thanh Nhàn - Diệp Toàn
Sau thời gian dài im ắng, Top 3 Hoa hậu Việt Nam 2002 có màn hội ngộ trong một bộ ảnh. Ba người đẹp khiến khán giả trầm trồ vì nhan sắc của mình.
" alt=""/>Cuộc sống ít biết về Á hậu Hoàng Oanh quen mặt mọi sân bay Việt Nam
Vào tháng 8 năm 1971, Zhang Fengxiang (hán tự Trương Phong Tường), một người dân thuộc làng Sanxing Tala ở vùng Wengniute Nội Mông, bất ngờ phát hiện thấy một cái hang lấp miệng bằng các khối đá trong rừng cây.
Do tò mò, anh quyết định khám phá hang động. Ở dưới cùng của hang động, Fengxiang tìm thấy một thứ giống như một móc sắt, nhưng lúc đó anh không quan tâm tới đồ vật này. Sau khi trở về nhà, Fengxiang suy nghĩ cẩn thận, ngay cả khi nó là sắt vụn, anh cũng có thể bán lấy tiền. Vì vậy anh quay lại hang động và lấy "khối sắt vụn".
Tuy nhiên, Zhang Fengxiang đã không bán nó cho trạm thu gom phế thải mà đưa nó tới Trung tâm văn hóa Wengniute.
Vào thời điểm đó, văn hóa Hồng Sơn chưa được phát hiện. Các nhân viên của Trung tâm văn hóa cũng không biết miếng sắt đó là gì và Zhang Fengxiang cũng không biết nó có giá bao nhiêu. Một nhân viên ở đó đã chủ ý trả Fengxiang 30 nhân dân tệ để mua lại món đồ này. Về sau, mọi người mới biết rằng đây là một cổ vật quý giá thuộc thời kỳ đồ đá mới.
Minh Thanh thượng hà đồ thời Bắc Tống
Là một bức tranh được vẽ trong triều đại Bắc Tống, "Minh Thanh thượng hà đồ" có lịch sử gần một ngàn năm, đồng thời cũng trải qua một quá trình triền miên lưu lạc từ cung điện tới dân gian, rồi lại từ nhân gian vào cung điện. Năm 1911, Minh Thanh thượng hà đồ, vốn được cất giữ trong cung điện nhà Thanh, sau đó bị Phổ Nghi trộm đem tới Đông Bắc của Mãn Châu Quốc. Năm 1945, khi Nhật Bản thất bại, Mãn Châu Quốc bị hủy bỏ, Phổ Nghi tháo chạy. Một số lượng lớn các bảo vật bị phá hủy. Người ta cho rằng Minh Thanh thượng hà đồ đã bị đốt cháy trong chiến tranh.
Nhưng đáng ngạc nhiên là năm 1951, khi học giả văn hóa Dương Nhân Khải dọn dẹp bảo tàng văn hóa Đông Bắc, ông lại tìm thấy bức Minh Thanh thượng hà đồ này nằm trong một đám phế phẩm.
“Hàn thiết thiệp” của Vương Hy
Hàn thiết thiệp được coi là tác phẩm thư pháp thần thánh của nhà thư pháp nổi tiếng thời Đông Tấn – Vương Hi. Bút pháp đơn giản mà cảnh ý lại vô cùng cao siêu. Bức thư pháp được Phổ Nghi đưa ra khỏi cung khoảng đầu thế kỷ trước, sau đó đã mất tích trong nhiều chục năm.
Vào những năm 1960, nhiều bức tranh dân gian đã được tập trung tại trạm thu gom rác, và hầu hết chúng được ném vào lò trộn và biến thành bột giấy. Là một thẩm định viên lĩnh vực di tích văn hóa, nhiệm vụ của Lưu Quang Khởi là giải cứu các cổ vật văn hóa quý giá khỏi những đám phế phẩm, khó như việc tìm kim trong đống cỏ khô.
Một sự trùng hợp ngẫu nhiên đã xảy ra, khi Lưu Quang Khởi đang ở trong một trạm thu gom phế thải ở đường Thái Hồ, khu Hà Tây, Thiên Tân, và phát hiện một ống cuộn đựng giấy có vẻ ngoài đặc biệt. Khi mở ra, ông Lưu đã vô cùng bất ngờ khi biết đó là 2 bức thư pháp nổi tiếng của Vương Hi. Một bức là “Hàn thiết thiệp” và bức còn lại là “Can âu thiệp”, cả hai đều là báu vật thư pháp của Vương Hi đã bị Phổ Nghi đánh mất.
Bình đựng rượu Tứ dương phương tôn thời nhà Thương
Đây là một cổ vật vô cùng quý giá của thời nhà Thương. Chiếc bình đựng này là vật đại diện điển hình cho các sản phẩm hũ đựng thời kỳ triều Thương đến triều Chu, miệng rộng, cổ cao, hình tròn hoặc vuông, chạm khắc đủ 12 con giáp như dê, hổ, voi, ngựa, phượng hoàng... Sau xuân thu chiến quốc, loại hình hũ bình này ít thấy hơn.
Chiếc bình cổ này được một số nông dân ở Hồ Nam đào thấy vào năm 1938. Sau đó, nó được bán cho nhà buôn đồ cổ với giá 248 đồng tiền đại dương thời đó. Khi những nhà buôn này phá sản, chiếc bình cổ lại được chính phủ dân quốc tìm thấy và thu lại.
Trong Thế chiến II sau đó, Trường Sa bị quân đội Nhật ném bom, chiếc bình cổ cũng mất dấu vết. Mãi đến năm 1952, dưới sự truy tìm của sở văn hóa và di tích cổ vật, chiếc bình được tìm thấy ở góc của một nhà kho ngân hang trong tình trạng đã vỡ thành hàng chục mảnh. Sau gần một năm sửa chữa, chiếc bình đã khôi phục nguyên dạng và trở thành bảo vật quốc gia.
Bình đựng rượu Hà tôn thời Tây Chu
Cổ vật này là bằng chứng, là ghi chép sớm nhất có nhắc đến từ “Trung Quốc”. Chiếc bình có khắc 12 dòng, bao gồm 122 chữ, trong đó có nhắc tới 4 chữ “ Trạch từ Trung Quốc”, ghi chép lại việc Thành vương kế thừa Võ vương, xây dựng lên Chu Thành ( nay là Lạc Dương).
Năm 1963, chiếc bình được một người nông dân tìm thấy trên một vách đá bẩn phía sau nhà. Người nông dân không biết chiếc bình này la gì, liền mang đặt trong nhà làm hũ đựng thực phẩm. Sau đó, người này đã bán chiếc bình dưới dạng sắt vụn với giá 30 nhân dân tệ! Sau đó, chiếc binh may mắn được một chuyên gia ở viện bảo tàng phát hiện thấy ở kho phế thải và thu mua lại.
Đồ đựng bằng đồng thời Tây Chu
Đây là một cổ vật bằng đồng thau thời Tây Chu đang được lưu giữ tại bảo tàng Bắc Kinh. Cổ vật này đã có hơn 3000 năm lịch sử, phía trong có khắc 198 chữ, ghi chép lại việc Mao Bách Ban dẹp loạn, được vua Chu khen thưởng. Cổ vật này được khai quật sớm nhất là vào thời Bắc Tống, và từ đó được đưa vào bộ sưu tập đồ cổ trong cung đình. Tuy nhiên, vào năm 1900, khi đồng minh 8 nước tiến vào Trung Quốc, nó đã biến mất trong chiến tranh.
Mãi đến hơn 70 năm sau, cổ vật này mới được các nhân viên làm việc tại khu di tích văn hóa ở Bắc Kinh tìm thấy trong một đống sắt vụn sắp được gửi đến lò nung, nơi mang lại cho kho báu quốc gia này một cuộc sống thứ hai!
Bình đựng khắc chữ thời nhà Thương
Chiếc bình khắc chữ thời nhà Thương này hiện đang được lưu giữ trong bảo tàng Hồ Nam. Nó được phát hiện vào năm 1962. Khi đó chuyên gia di tích văn hóa đang dạo qua các khu trung tâm thu hồi phế liệu để truy tìm những bảo vật quốc gia thì vô tình phát hiện ra chiếc bình này.
Đồng phế liệu từ trạm tái chế được thu hồi từ nhiều nơi khác nhau và tại thời điểm đó, các chuyên gia đã chú ý tới một mảnh đồng khá đặc biệt. Họ cảm thấy nó khác với những miếng đồng vụn khác nên đã có động lực tìm và khám phá thêm.
Sau đó, họ đã tìm thấy hơn 200 mảnh đồng trong đám sắt vụn đó, được chứa vào 27 chiếc túi. Và sau một thời gian lắp ghép sửa chữa, bảo vật này đã khôi phục lại nguyên trạng như chúng ta thấy ngày nay.
Bình rượu đồng thau thời chiến quốc
Năm 1967, tại một một trạm thu gom phế liệu ở Thỏa Đức, tỉnh Thiểm Tây, một nhân viên di tích văn hóa đã tinh mắt nhìn thấy một món đồ chuẩn bị được đưa vào lò nung với diện mạo “bất thường”.
Sau khi qua giám định, được biết đây là một chiếc bình bằng đồng tinh xảo trong thời Chiến Quốc, là một bảo vật văn hóa hạng nhất quốc gia. Chiếc bình chim này có một giá trị văn hóa và nghệ thuật vô giá.
Đào ưng đỉnh thuộc thời kỳ đồ đá mới
Một ngày nọ vào năm 1957, Yên Tư Nghĩa, một nông dân ở thôn Thái Bình khi đang cày xới đất ở phía đông làng, đột nhiên thấy cầy đâm vào vật cứng. Ông nghĩ đó là một hòn đá. Nhưng khi ông tiếp tục đào, thì lại tìm thấy một món đồ bằng sứ có hình dạng con chim, mà ông không hề biết đây chính là cổ vật nổi tiếng sau này – đào ưng đỉnh ( đỉnh bằng sứ, hinh chim ưng). Ông đã không biết rằng mình đã đào được một báu vật quốc gia lúc đó, chỉ biết mang về nhà dùng làm âu đựng thịt gà.
Vào mùa thu năm 1958, một nhóm khảo cổ gồm các giáo viên khảo cổ và sinh viên của Khoa Lịch sử Đại học Bắc Kinh đã phát hiện ra Khu di tích Ngưỡng Thiệu tại làng Tuyền Hộ. Họ tiến hành điều tra khu vực lân cận đồng thời với việc tiến hành khai quật điểm di tích.
Thôn Thái Bình nằm ở phía Tây của làng Tuyền hộ. Khi Yên Tư Nghĩa nhìn thấy đội khảo cổ làm việc hăng say, ông đã chủ động kể lại chuyện mình đào được một món đồ sứ với nhân viên và đem Đào ưng đỉnh giao lại cho họ. Nhờ vậy mà bảo vật vô giá này mới được cả thế giới biết đến và hiện đang được lưu trữ trong bảo tàng quốc gia.
Cao tử qua thời Xuân Thu
Cao tử qua là vũ khí của thời kỳ xuân thu chiến quốc, là một bảo vật văn hóa hạng nhất, hiện đang được lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Nhà nước ở Sơn Đông, Trung Quốc. Cổ vật này được phát hiện lần đầu tiên vào năm 1970, khi một cậu bé nông thôn coi la sắt vụn và đem bán với giá 5,97 nhân dân tệ. Sau đó, nó lưu lạc một thời gianvà được sở văn hóa và di tích lịch sử phát hiện và thu hồi. Cho đến 16 năm sau, cậu bé nông thôn người phát hiện ra Cao tử qua đã trưởng thành. Một lần ông tới viện bảo tàng và nhận ra miếng sắt vụn ông bán năm nào đã trở thành báu vật quốc gia, được triển lãm toàn quốc. Ông liền kể cho các nhân viên ở bảo tàng câu chuyện ngày bé khi ông tìm thấy Cao tử qua.
Theo m.danviet.vn
" alt=""/>Chuyện li kỳ về 10 bảo vật vô giá của Trung Quốc