![]() |
Công bố quốc tế dự kiến sẽ trở thành một tiêu chuẩn đầu ra của đào tạo tiến sĩ. Ảnh: UEH. |
"Công bố quốc tế cũng thượng vàng hạ cám"
Trước yêu cầu các nghiên cứu sinh (NCS) phải có công bố quốc tế trên các tạp chí chuyên ngành có phản biện mới được bảo vệ luận án tiến sĩ được nêu ra trong dự thảo quy chế đào tạo tiến sĩ mà Bộ GD-ĐT đang soạn thảo, khá nhiều ý kiến tỏ ra đồng tình.
Ông Phạm Hiệp, nghiên cứu sinh Trường ĐH Văn hóa Trung Hoa, Đài Loan cho rằng, yêu cầu NCS có công bố quốc tế chính là quy định quan trọng nhất để nâng cao chất lượng của tiến sĩ ở Việt Nam.
"Khi yêu cầu NCS phải có công bố quốc tế thì có thể tạm yên tâm là trình độ của NCS cũng ở mức độ quốc tế. Thậm chí quy chế mới ko cần quy định các chi tiết khác, chỉ cần quy định đúng cái này thôi thì tôi tin rằng, trong thực tế, các điều được quy định trong các chi tiết khác cũng sẽ diễn ra" - ông Hiệp khẳng định.
Theo ông Hiệp, với quy định này, số lượng NCS có thể sẽ giảm mạnh nhưng chất lượng thì có thể yên tâm là ngang tầm quốc tế.
Tuy nhiên, ông Phạm Hiệp cũng cho rằng, cần xác định rõ hơn khái niệm công bố quốc tế. Theo ông Hiệp, các công bố trên các tạp chí thuộc danh mục tạp chí ISI, Scopus có thể là thước đo tốt cho nhiều ngành. Nhưng một số ngành KHXH&NV thì ngoài 2 danh mục này, các công bố quốc tế khác cũng tốt.
"Bản thân các GS ngành đó cần đưa ra đc danh muc riêng của ngành, nếu họ cảm thấy iSI SCOPUS là chưa đủ tốt. Ví dụ như ngành y, ngoài danh mục ISI, Scopus thì còn có danh mục Index theo PubMed"
Nhiều ý kiến chia sẻ với quan điểm của NCS Phạm Hiệp. TS Nguyễn Nam Trân (Trường ĐH KHTN, ĐHQG TP. HCM) cho rằng, quy định chung chung về công bố quốc tế là chưa đủ vì "tạp chí quốc tế cũng thượng vàng hạ cám".
"Với ngành Y và các ngành Khoa học kỹ thuật, tôi cho rằng cần phải có ít nhất 1 công bố ISI và một công bố quốc tế khác (có hoặc ko có ISI vẫn được) với NCS là tác giả đứng tên đầu. Hiện nay có rất nhiều tạp chí quốc tế rất dễ đăng bài và chất lượng còn kém hơn cả tạp chí Việt Nam, đặc biệt là các tạp chí xuất bản ở Trung Quốc, Ấn Độ, Châu Phi và Đông Âu".
PGS.TS Phạm Thanh Phong (Trường ĐH Tôn Đức Thắng, hiện là Giáo sư thỉnh giảng tại Đại học Dongguk, Hàn Quốc) chia sẻ, tại trường đại học nơi ông đang làm giáo sư thỉnh giảng, NCS muốn bảo vệ phải có ít nhất 2 bài báo công bố trên tạp chí ISI (KHTN&KT) hoặc ít nhất 1 bài trên Scopus (cho hầu hết các ngành KHXH&NV).
"NCS chỉ bảo vệ 1 lần trước hội đồng khoa bảng của trường nhưng trước khi bảo vệ luận án phải được thẩm định của 5 GS ngoài trường. Nếu 1 người không đồng ý thì phải xem xét lại sau khi có giải trình của NCS để người thẩm định xem xét lại lần hai. Hội đồng khoa bảng của trường có thể có GS ngoài trường" - TS Phong chia sẻ.
Từ đó, TS Phong kiến nghị, điều kiện để NCS được bảo vệ tiến sĩ ở Việt Nam là phải có tối thiểu 2 bài báo ISI và ít nhất 1 bài trên các tạp chí trong nước đối với ngành KHTN-CN. Đối với ngành KHXH&NV cân đảm bảo tối thiểu 1 bài trên Scopus (hoặc 1 chương sách do các nhà xuất bản KH uy tín phát hành) và 1 bài trên tạp chí trong nước. Ngoài ra còn cần phải có quy định NCS phải tham gia các hội nghị khoa học quốc gia hoặc quốc tế để báo cáo các kết quả nghiên cứu của mình.
"Việc quy định phải có bài báo trên các tạp chí trong nước nhằm nâng cao chất lượng các tạp chí khoa học trong nước. Quy định tham gia các sinh hoạt học thuật qua các hội nghị khoa học là bắt buộc nhằm giúp cho NCS trao đổi với đồng nghiệp về hướng nghiên cứu và tự giới thiệu bản thân với các nhà khoa học trong nước và quốc tế cũng như trau dồi tiếng Anh học thuật" - TS Phong chia sẻ.
TS Phong cũng cho biết, thực tế, tại Việt Nam, một số cơ sở nghiên cứu, đào tạo và một số nhóm nghiên cứu mạnh như Viện Toán học, Viện Khoa học Vật liệu, Viện Hàn lâm KHCN Việt Nam đều yêu cầu NCS phải công bố ít nhất 2 bài ISI mới đủ điều kiện bảo vệ. Ngay tại Trường ĐH Tôn Đức Thắng NCS muốn có học bổng toàn phần cũng cần có 2 bài ISI.
Cần tính đến đặc thù từng ngành
Bên cạnh những ý kiến đồng tình, nhiều người trong cuộc lại cho rằng, rất khó để đưa ra một chuẩn đầu ra dựa trên các công bố quốc tế.
Ông Trần Nam, NCS tại ĐH Queensland cho rằng, dự thảo của Bộ GD-ĐT yêu cầu người làm NCS phải có công bố quốc tế là không hợp lý vì ngay cả các nước như Mỹ hay Autralia cũng không bắt buộc NCS phải có xuất bản quốc tế trước khi tốt nghiệp.
Ông Nam cũng cho rằng, thời gian làm nghiên cứu sinh ở các quốc gia khác là từ 3-4 năm (toàn thời gian) hoặc 6-7 năm (bán thời gian), nên NCS có thể sử dụng toàn bộ thời gian cho việc học và làm nghiên cứu, do đó, có thể kỳ vọng họ có thể có công bố quốc tế trong thời gian học. Tuy nhiên, với thời gian học NCS ở Việt Nam chỉ khoảng 2-3 năm thì rất khó có thể có công bố quốc tế.
![]() |
Nhiều ý kiến cho rằng, yêu cầu công bố quốc tế cần phải tính đến đặc thù của từng ngành. |
"Chưa kể đến việc gửi bản thảo cho các tạp chí ít nhất cũng mất 3-6 tháng để được đăng tải từ lúc gửi bài (nếu bài viết thực sự tốt) hoặc có tạp chí mất 8 tháng, thậm chí hơn 1 năm; thậm chí cần nhiều thời gian hơn để viết tiếng Anh học thuật" - ông Nam phân tích.
"Đó cũng chưa kể đến một số yếu tố khác tác động đến khả năng có thể có xuất bản quốc tế của nghiên cứu sinh như: Một số ít ngành học/lĩnh vực nghiên cứu 'khó/nhạy cảm' để công bố quốc tế; Thầy cô hướng dẫn chưa có hoặc có ít kinh nghiệm trong xuất bản quốc tế; Động cơ và thái độ học tập của nghiên cứu sinh...."
Từ đó, ông Nam cho rằng, mặc dù ông ủng hộ việc người làm nghiên cứu cần có công bố quốc tế và ủng hộ việc nâng cao chất lượng đào tạo sau đại học, tuy nhiên, có lẽ không nên bắt buộc NCS phải có công bố quốc tế.
"Nên chăng là khuyến khích họ có công bố quốc tế thì hơn" - ôn Nam đặt vấn đề. "Việc cần làm lúc này là xiết chặt quy định xét duyệt phong GS-PGS. Những người được phong học hàm này phải có công bố quốc tế trong khoảng thời gian 3 năm trở lại và phải đứng đầu 2, thậm chí 3 bài thì mới được xét. Tôi quan niệm muốn có trò giỏi thì trước tiên thầy phải giỏi. Thầy không giỏi và không có xuất bản quốc tế thì cũng đừng mong trò có xuất bản quốc tế".
Đồng quan điểm này, TS Hồ Nhân Bảo (CĐ Sư phạm Quảng Trị) cho rằng, một bài báo cần có thời gian phản biện, nếu 2-3 năm mới có kết quả gửi bài, mất 1 năm chờ phản biện thì quá hạn tốt nghiệp. Chưa kể, muốn gửi tạp chí tốt, có thể bị từ chối, chọn lại tạp chí dễ hơn, thời gian mất gấp đôi. Do đó, nếu tạo áp lực cho NCS thì họ sẽ phải gửi bài tốt cho tạp chí ít nổi tiếng hơn để được công bố sớm. Đó là một điều không hay.
Bên cạnh đó, theo TS Bảo cần phải tính đến đặc thù ngành. "Chẳng hạn ngành toán có thể có bài báo sớm nhưng ngành xã hội thì ít khi có kết quả sớm nên quy định có bài báo quốc tế là không phù hợp. Tôi có người bạn làm ngôn ngữ học, tốt nghiệp chưa có bài nào nhưng sau đó 2 năm đăng liên tục 5 bài dựa trên luận văn. Tôi nghĩ rằng đó cũng là lí do người ta cần người chấm luận văn" - ông Bảo phân tích.
Để giải quyết "vấn đề" này, theo ông Bảo cần giải quyết khâu đào tạo thạc sĩ trước. "Không thể nào thả nổi việc đào tạo thạc sĩ mà đòi nâng cao chất lượng tiến sĩ được. Không phải ai cũng có bài báo trước khi làm tiến sĩ. Nếu cần và rất cần là điều kiện tiếng Anh, kỹ năng đọc hiểu và viết ở mức độ chấp nhận được" - ông Bảo khẳng định.
"Không thể đào tạo tiến sĩ kiểu tại chức"
Tuy vậy, hầu hết các ý kiến cho rằng, để có thể nâng cao chất lượng tiến sĩ, để NCS có thể có công bố quốc tế thì điểm mấu chốt là không thể làm tiến sĩ kiểu "tại chức", vừa làm, vừa học.
TS Nguyễn Nam Trân cho rằng, thế giới coi việc học tiến sĩ là một công việc kết hợp giữa học và làm toàn thời gian được trả lương (dù rất thấp), còn ở Việt Nam hiện tại cả thạc sĩ, tiến sĩ đều là học hệ "tại chức", bán thời gian không được trả lương.
"Có thực mới vực được đạo, khi người hướng dẫn không có tiền để trả cho NCS thì NCS phải ưu tiên đi làm việc khác để kiếm tiền còn việc học chỉ là phụ. Mà khi đã không ưu tiên và không tập trung nghiên cứu toàn thời gian thì rất khó có nghiên cứu chất lượng để có công bố ISI đứng tên đầu được" - TS Trân khẳng định.
![]() |
Nghiên cứu sinh cần dành toàn bộ thời gian cho việc học tập, nghiên cứu thì đầu ra tiến sĩ mới đảm bảo chất lượng. Ảnh: UEH. |
TS Phạm T.T Trang (Trường ĐH Công nghệ, ĐHQGHN) cho rằng, có một điểm khác biệt rõ rệt giữa Việt Nam với nước ngoài là NCS ở nước ngoài không phải trả tiền gì mà còn nhận được tiền ăn ở và lương.
"Chẳng hạn ở châu Âu hay Singapore thì học bổng hoặc lương khá cao và đủ sống. Ở Mỹ thì còn phụ thuộc vào làm teaching assistant (trợ giảng), hay ở Hàn Quốc thì thường là GS sử dụng tiền tài trợ đề tài để trả. Còn ở Việt Nam, NCS vừa phải trả tiền học, vừa phải làm việc ở cơ quan chủ quản thì làm sao họ tập trung được?" - bà Trang cho hay.
"Rất nhiều NCS Việt Nam làm NCS là vì họ phải làm và không thấy lợi ích hay hứng thú cho việc đó. Nhiều người đi học dưới dạng part-time (bán thời gian) và học chỉ vì cần cái bằng, nên họ tìm mọi cách để giảm nhẹ việc nghiên cứu do vẫn còn phải làm công việc chính tại cơ quan. Các GS hướng dẫn khi có đề tài cũng bị sức ép phải có bài báo và có TS bảo vệ thành công, nên nhiều khi phải nhắm mắt làm dùm NCS còn hơn là đi dọn rác họ bày ra".
TS Trần Thành Nam (Trường ĐH Giáo dục, ĐHQGHN) cũng chia sẻ, ở các quốc gia phát triển, không có kiểu đào tạo tiến sĩ tại chức hay tiến sĩ vừa học vừa làm như ở Việt Nam.
Theo TS Nam, khi làm tiến sĩ toàn thời gian thì thầy giáo hướng nên lo kinh phí nghiên cứu, NCS chỉ lo chi phí ăn ở thôi. Thầy hỗ trợ được NCS làm trợ giảng hay trợ lý nghiên cứu đc từ dự án nghiên cứu của thầy thì tốt. Lúc đó các NCS mới thực sự là ăn ngủ với nghiên cứu và tạo ra một nghiên cứu chất lượng được.
"Số lượng NCS cũng phải hạn chế theo định mức nghiên cứu để đảm bảo chất lượng. Nếu thầy ko có dự án nghiên cứu không có tiền cho đào tạo NCS thì không được nhận hướng dẫn NCS chứ không có chuyện thầy dạy NCS để kiếm tiền như dạy tại chức được" - TS Nam khẳng định.
Lê Văn
" alt=""/>Không thể chất lượng nếu cứ đào tạo tiến sĩ kiểu tại chứcĐây là một trong những nội dung được nêu ra tại cuộc họp báo quý II/2017 của Bộ Xây dựng (ngày 2/8).
Trước đó, Chính phủ đã có ý kiến về việc phê duyệt Điều chỉnh cục bộ Quy hoạch chung Thủ đô, yêu cầu Bộ Xây dựng chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan tổ chức thẩm định Điều chỉnh cục bộ Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050 - Khu vực Trung tâm Hội chợ triển lãm quốc gia tại huyện Đông Anh.
![]() |
Trao đổi tại cuộc họp báo, bà Trần Thu Hằng – Phó Vụ trưởng Vụ quy hoạch kiến trúc (Bộ Xây dựng) cho biết, Bộ mới tiếp nhận văn bản đề nghị của UBND TP.Hà Nội về việc điều chỉnh quy hoạch khu trung tâm Hội chợ triển lãm quốc tế tại Đông Anh để kết hợp với triển lãm quốc gia và quỹ đất khu đất xung quanh để phát triển dịch vụ hỗn hợp dịch vụ hỗ trợ cho triển lãm cũng như khu đô thị sinh thái.
Theo bà Hằng, trước đây, theo quy hoạch chung dự án Trung tâm hội trợ triển lãm quốc gia mới khu Triển lãm có 2 khu vực: Khu vực triển lãm quốc tế tại huyện Đông Anh và khu vực triển lãm quốc gia tại Mễ Trì, quận Nam Từ Liêm (nằm trên trục đại lộ Thăng Long).
“Tuy nhiên trong quá trình thực hiện Hà Nội thấy rằng việc kết nối 2 khu vực triển lãm sẽ tận dụng được quỹ đất và dành quỹ đất ở Mễ Trì sang phát triển chức năng khác. Do đó, Hà Nội đã chủ động mở rộng phạm vi khu vực hội chợ, triển lãm tại Đông Anh lên 200ha (quy hoạch ban đầu là 90ha) trong đó 90ha sẽ dành cho triển lãm và phần còn lại thì phát triển các dịch vụ hỗ trợ khu vực và dự án” – Phó Vụ trưởng Vụ Quy hoạch kiến trúc cho hay.
Cũng theo vị Phó Vụ trưởng Vụ Quy hoạch kiến trúc, hiện Bộ đang xem xét để hướng dẫn UBND TP Hà Nội báo cáo Thủ tướng Chính phủ điều chỉnh cục bộ đảm bảo theo pháp luật.
Trước đó, Thủ tướng đã giao cho Công ty TNHH một thành viên Trung tâm hội chợ triển lãm Việt Nam (VEFAC) làm chủ đầu tư 2 dự án lớn: Dự án Trung tâm Thương mại Dịch vụ Văn hóa trên diện tích 6,8 ha tại 148 đường Giảng Võ, quận Ba Đình, Hà Nội với tổng mức đầu tư dự kiến 800 triệu USD. Và dự án Khu Trung tâm Hội chợ triển lãm quốc gia tại Mễ Trì với diện tích 125 ha, nằm trên trục Đại lộ Thăng Long, thuộc xã Mễ Trì, xã Trung Văn, huyện Từ Liêm với tổng mức đầu tư dự kiến 2 tỷ USD.
Hồng Khanh
![]() Điều chỉnh Quy hoạch Trung tâm Hội chợ triển lãm quốc giaPhó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng vừa có ý kiến về việc phê duyệt Điều chỉnh cục bộ Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050. " alt=""/>Hà Nội xin điều chỉnh quy hoạch triển lãm Đông Anh
Có không ít cơ quan đơn vị đã thực hiện di dời tuy nhiên quỹ đất sau di dời, được sử dụng làm cơ sở 2 hoặc lập dự án đầu tư xây dựng kinh doanh, thương mại, không bàn giao quỹ đất sau di dời cho thành phố để quản lý, khai thác bổ sung hạ tầng xã hội và kỹ thuật… Tháng 12/2010, Bộ Nội vụ tổ chức lễ khánh thành khá quy mô toà trụ sở mới tại số 8 Tôn Thất Thuyết (Cầu Giấy), Hà Nội. Trụ sở mới của Bộ Nội vụ cao 17 tầng liền khối, 2 tầng hội trường đa năng với các thiết bị hiện đại vượt trội so với trụ sở của nhiều Bộ cùng thời điểm. Tuy nhiên, thay vì bàn giao lại trụ sở cũ ở 37 Nguyễn Bỉnh Khiêm (Hai Bà Trưng) cho Hà Nội lập phương án quy hoạch sử dụng vào mục đích công cộng, Bộ Nội vụ tiếp tục “giữ” 2 trụ sở từ năm 2010, trước khi trụ sở này được chuyển giao cho Bộ Lao động - Thương binh & Xã hội sử dụng theo quyết định của Bộ Tài chính tháng 5/2017. Cùng thời điểm, Tổng cục Hải quan cũng được đầu tư xây dựng khu trụ sở mới tại Lô E3 - Trung Hòa - Cầu Giấy. Trụ sở tọa lạc ở vị trí “vàng” gồm một khối nhà hỗn hợp cao 18 tầng, được thiết kế và đầu tư trang thiết bị hiện đại, với kinh phí hơn 200 tỷ đồng. Cũng giống như nhiều bộ, ngành khác, trụ sở cũ của Tổng cục Hải quan tại địa chỉ 160 Nguyễn Văn Cừ không được chuyển giao cho địa phương lên kế hoạch quản lý và sử dụng, mà lập tức biến thành trụ sở của Trường đào tạo cán bộ ngành Hải quan! Tại vị trí Lô D24 - Khu đô thị mới Cầu Giấy có trụ sở mới của Bộ Tài nguyên & Môi trường (TN&MT) rộng 1,38ha, cao 18 tầng với tổng kinh phí đầu tư khoảng 372 tỷ đồng. Dù vậy, bộ này vẫn giữ lại trụ sở cũ tại đường Nguyễn Chí Thanh để sử dụng. Đại diện Bộ TN&MT lý giải, việc bộ này vẫn giữ lại trụ sở cũ ở Nguyễn Chí Thanh là do Bộ TN&MT được giao quản lý thêm 3 lĩnh vực nên công năng trụ sở mới vẫn không đáp ứng đủ. Mới đây nhất, giữa tháng 6/2017, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam đề xuất chuyển trụ sở về khu Mễ Trì (quận Nam Từ Liêm) do quá tải về trụ sở làm việc. Theo BHXH Việt Nam, dự kiến đến năm 2030, cơ quan sẽ cần tới 72.000m2, diện tích sàn xây dựng để đáp ứng nhu cầu diện tích làm việc cho các đơn vị chuyên môn và đơn vị sự nghiệp trực thuộc. Do đó, việc xây dựng trụ sở mới tại khu Mễ Trì là cấp thiết. Tuy nhiên, tại trụ sở cũ “khu đất vàng” số 7 Tràng Thi (quận Hoàn Kiếm), đơn vị này lại đề nghị đưa một đơn vị vào xây dựng theo hình thức PPP, hợp đồng BT. Theo đó, nhà đầu tư sẽ ứng vốn thực hiện dự án và được hoàn vốn bằng quỹ đất của cơ sở nhà, đất tại số 7 Tràng Thi.v.v.
Nhiều vướng mắc, thiếu chế tài Gần 15 năm thực hiện quyết định của Thủ tướng, nhưng đến nay Hà Nội vẫn chưa thu hồi được một khu đất nào để xây dựng các công trình công cộng. Trong tổng số 28 cơ quan bộ, ngành thuộc khu vực nội đô Hà Nội được xem xét di dời, đã có 10 cơ quan thực hiện chủ trương di dời, dù đang rất thiếu quỹ đất để bố trí chức năng sử dụng phù hợp với quy hoạch chung xây dựng Thủ đô. Tuy nhiên, Hà Nội cũng không cách nào để yêu cầu các bộ, ngành bàn giao lại các khu đất cũ. Trao đổi với PV Tiền Phong, ông Nguyễn Hữu Nghĩa - Phó Giám đốc Sở TN&MT Hà Nội cho biết, để việc bàn giao - tiếp nhận có hiệu quả cần có sự phối hợp giữa bên được tiếp nhận trụ sở mới với cơ quan quản lý địa bàn là TP Hà Nội. Tuy nhiên, do chưa có một chế tài quy định rõ ràng nên việc tổ chức thực hiện không hiệu quả, có nhiều khó khăn và vướng mắc. Trong đó, vướng mắc nhiều nhất nằm ở ý thức của các đơn vị có trụ sở mới chưa muốn bàn giao lại cơ sở cũ. Theo ông Nghĩa, hiện Bộ Xây dựng là cơ quan được Chính phủ giao rà soát, lập phương án sắp xếp lại trụ sở các bộ, ngành. Sở TN&MT sẽ có văn bản tham mưu Thành phố báo cáo Thủ tướng Chính phủ, đồng thời làm việc với các bộ, ngành liên quan về vấn đề trên. Mới đây, Bộ Tài chính có báo cáo chỉ rõ: Tính đến tháng 12/2016, các bộ, ngành, địa phương trong cả nước đã báo cáo kê khai và đề xuất phương án xử lý đối với gần 155.000 cơ sở nhà, đất với tổng diện tích khoảng trên 3 tỷ m2 đất và khoảng 140 triệu m2 nhà. Các cấp có thẩm quyền đã phê duyệt phương án sắp xếp lại, xử lý đối với trên 123.800 cơ sở với tổng diện tích là 1.967 triệu m2 đất và 116 triệu m2 nhà. Trong số trên, cơ quan chức năng đã quyết định giữ lại tiếp tục sử dụng phần lớn diện tích với 1.857 triệu m2 đất; còn lại là bán, chuyển nhượng, chuyển mục đích sử dụng đất,… Tổng số tiền thu được từ bán tài sản trên đất, chuyển nhượng quyền sử dụng đất và chuyển mục đích sử dụng đất của các bộ, ngành, tập đoàn, tổng công ty nhà nước và các địa phương trên phạm vi cả nước là 50 nghìn tỷ đồng. Theo đại diện Bộ Tài chính, việc sắp xếp nhà, đất triển khai còn chậm do nguyên nhân từ cơ chế, chính sách. Báo cáo của Bộ Tài chính cũng thẳng thắn nêu lên, một số bộ, ngành, địa phương chưa nghiêm túc chấp hành chấm dứt việc cho thuê, cho mượn, liên doanh, liên kết chưa đúng quy định. Đặc biệt, đại diện một số bộ, ngành, địa phương còn tỏ ra cố giữ nhà, đất đang quản lý, sử dụng. Việc để sự việc xảy ra là do hiện chưa có chế tài xử lý phù hợp. Ngoài ra, công tác hậu kiểm việc thực hiện phương án chưa được quy định ở chính sách và tổ chức thực hiện còn hạn chế. Báo cáo Bộ Tài chính cho biết, nhà, đất là những tài sản có giá trị lớn, cần được sử dụng tiết kiệm, hiệu quả. Bởi vậy, định hướng việc xử lý, sắp xếp nhà, đất trong thời gian tới theo cơ quan này cần thông qua cơ chế sắp xếp nhà, đất để khắc phục tình trạng sử dụng sai quy định, lãng phí nguồn tài sản công của Nhà nước.
Theo Tiền phong ![]() Hậu trường thanh tra việc chuyển đổi ‘đất vàng’Thanh tra Chính phủ (TTCP) thực hiện thanh tra việc chuyển nhà đất công sang mục đích khác có vị trí đắc địa, tại một dự án lớn ở Hà Nội nhận được thông tin Kiểm toán nhà nước đã vào cuộc, TTCP phải dừng lại. " alt=""/>Di dời trụ sở bộ ngành khỏi nội đô Hà Nội: Đua nhau bám trụ “đất vàng”
|