![]() |
Prime Minister Phạm Minh Chính delivers a speech at the conference. — VNA/VNS Photo |
HÀ NỘI — Prime Minister Phạm Minh Chính reaffirmed Việt Nam’s steadfast commitment to protecting and promoting human rights through education during his keynote address at the national conference on human rights education in Hà Nội yesterday.
He said that human rights serve as both the means and the ultimate goal of national development, highlighting their crucial role in realising Việt Nam’s vision for prosperity and progress.
The conference, organised by the Hồ Chí Minh National Academy of Politics, was connected virtually to all 63 provinces and cities nationwide.
It coincided with the 76th anniversary of the Universal Declaration of Human Rights and the fifth phase of the Human Rights Education Programme endorsed by the UN Human Rights Council.
In his speech, PM Chính praised the event’s alignment with World Human Rights Day, noting its significance in showcasing Việt Nam’s dedication to human rights education on a global stage.
He outlined the nation’s goals to become an upper-middle-income country by 2030 and a high-income developed nation by 2045, underscoring that human rights are integral to achieving these milestones.
The Prime Minister indicated three key areas for advancing human rights in Việt Nam.
He emphasised the need for citizens to live safe, healthy and prosperous lives, recognising human rights as essential to national development.
He also pointed out that the protection of and education on human rights is a collective responsibility, involving collaboration across all sectors, with leadership from the Party, management by the State and participation from the public.
Chính also highlighted the importance of integrating human rights education into the national education system, with schools, families and society working together to promote lifelong learning.
The PM reaffirmed Việt Nam’s consistent approach to human rights, rooted in practical actions and policies, particularly those that ensure social welfare.
He invoked late President Hồ Chí Minh’s Declaration of Independence, which enshrined the inalienable rights to life, liberty and happiness - principles that have been incorporated into the Party’s platform and Việt Nam’s 2013 Constitution.
He said that human rights are central to national development, serving as both a guiding principle and an outcome of progress, calling for inclusive policies prioritising fairness and equal access to education, healthcare and social welfare to ensure that no one is left behind.
The people of Việt Nam should experience progressively more prosperous and happy lives each year, he stated.
PM Chính expressed confidence in Việt Nam’s unity and determination, emphasising the need for collective efforts across the political system, public institutions and communities to achieve the nation's human rights goals.
The conference brought together representatives from Party committees, the National Assembly, ministries, socio-political organisations, provincial leaders and educational institutions nationwide.
Reports presented at the event reviewed seven years of progress in implementing Government directives on human rights education and laid the groundwork for the next phase of the programme beyond 2025.
In recent years, Việt Nam has made significant progress in human rights protection and education, improving both the material and spiritual well-being of its people.
According to the UNDP Human Development Report, Việt Nam's Human Development Index rose eight places in 2024, ranking 107th out of 193 countries.
Its happiness index also increased by 11 places, reaching 54th out of 143 countries.
Việt Nam's Sustainable Development Goals index also improved by one place, ranking 54th out of 166 countries.
Việt Nam is an active member of the UN Human Rights Council for the 2023-2025 term. — VNS
" alt=""/>PM confirms Việt Nam's commitment to human rights education at national conferenceChi phí thay hộp số trên một số mẫu sedan khoảng 200 triệu đồng. Ảnh: Toyota.
Theo tạp chí The Economist, chiến lược mới của Đức đã thắp lên niềm hy vọng lớn đối với phương Tây. Nhưng chỉ sau 8 tuần chiến sự ở Ukraine, những hy vọng này đang dần tiêu tan, từng chút một. Thủ tướng Scholz vẫn từ chối ủng hộ các lời kêu gọi ngưng nhập khẩu hay áp thuế lên dầu khí Nga. Và mỗi ngày, Đức vẫn trả cho Nga hàng chục triệu Euro tiền sử dụng nhiên liệu hóa thạch, ngay cả khi chiến sự tại Ukraine vẫn tiếp diễn.
Không những thế, sự chần chừ trong việc cung cấp cho Ukraine các vũ khí hạng nặng như xe tăng, pháo tự hành … cũng khiến nhà lãnh đạo Đức đối mặt với với nhiều chỉ trích cả trong và ngoài nước.
Ràng buộc lợi ích với Nga
Không giống các đồng minh phương Tây khác, Đức không cung cấp vũ khí cho Ukraine trước cả thời điểm Nga mở chiến dịch quân sự đặc biệt, và thậm chí còn chặn các quốc gia khác gửi khí tài quân sự có xuất xứ từ Đức cho Kiev.
Theo hãng thông tấn Reuters, điều này là do Chính phủ Berlin từ lâu đã duy trì chính sách không xuất khẩu vũ khí tới các vùng chiến sự. Chính sách này đã nhận được sự ủng hộ rộng rãi của công chúng Đức, nhất là khi nước này đang cố gắng rũ bỏ những mặc cảm tội lỗi trong thời kỳ Thế Chiến II.
Tuyên bố của Thủ tướng Scholz hôm 27/2 là sự đảo ngược so với chính sách đối ngoại lâu đời của Đức là “Wandel durch Handel” (Thay đổi thông qua thương mại), với mục đích thay đổi bộ mặt của nước Nga thông qua thương mại và hội nhập kinh tế với Đức. Dù nhiều ý kiến xem đây là một rủi ro, các đời chính phủ Đức vẫn cho rằng thiết lập quan hệ với Moscow là một điều tốt, và hòa bình ở châu Âu sẽ không thể được duy trì nếu không có Nga.
Dù một số người chỉ trích cách tiếp cận hiện tại của ông Scholz là “quá nhút nhát”, sự dè dặt này có thể bắt nguồn từ việc đảng Dân chủ Xã hội Đức (SPD) từ lâu vốn ủng hộ phương Tây thân thiện với Nga. Thái độ này bắt nguồn từ "Ostpolitik" - chính sách nối lại quan hệ với các nước láng giềng phía đông của Đức, được khởi xướng vào năm 1969 bởi cựu Thủ tướng Tây Đức Willy Brandt, một thành viên của SPD.
“Tôi không nghĩ một chính trị gia SPD lại làm điều gì đó chống lại ý muốn của đảng mình”, Thomas Kleine-Brockhoff, chuyên gia thuộc Quỹ Marshall của Mỹ, cho biết. Theo ông, SPD thường thích hợp tác với Nga hơn là đối đầu.
Còn theo giáo sư Carlo Masala, chuyên gia quốc phòng và an ninh tại Đại học Bundeswehr Munich, Thủ tướng Scholz muốn đưa ra 2 thông điệp từ sự thay đổi này. Một mặt, ông muốn đánh tiếng với Nga rằng Đức vẫn đang kìm hãm việc viện trợ vũ khí hạng nặng cho Ukraine. Mặt khác, đó cũng là tín hiệu trấn an đối với người dân trong nước và chính đảng của ông.
"Đây là một vấn đề còn gây tranh cãi trong nội bộ SPD. Tuy nhiên, ông Scholz vẫn cần sự ủng hộ từ tất cả những nhà lập pháp có lập trường không muốn giao vũ khí hạng nặng cho Ukraine, những người rằng điều này sẽ làm leo thang xung đột và Đức sẽ thành mục tiêu của Nga”, giáo sư Masala nói với kênh DW.
Giới hạn của quân đội Đức
Giới chức Berlin đều lập luận rằng, việc cho đi các loại vũ khí hạng nặng sẽ khiến Đức không còn khả năng thực hiện nghĩa vụ của quân đội nước này cả trong nước lẫn với khối NATO. "Hiện tại, chúng tôi phải thừa nhận rằng các lựa chọn mà chúng tôi có đang đạt đến giới hạn", Thủ tướng Scholz nói.
Theo Phó tổng thanh tra Đức Markus Laubenthal, để đảm bảo khả năng phòng thủ trong nước và các vùng lãnh thổ thuộc NATO, quân đội Đức cần các hệ thống vũ khí đặc biệt như xe chiến đấu bộ binh Marder hoặc pháo tự hành hạng nặng 2000. Trong đó, Marder là hệ thống chiến đấu cần được đào tạo chuyên sâu. Dù thời gian đào tạo có thể được rút ngắn, vẫn cần vài tuần để chuẩn bị trang thiết bị này.
Bình luận của ông Laubenthal được đưa ra để đáp lại nhận xét của Đại sứ Ukraine tại Đức Andriy Melnyk, người từng tuyên bố quyết định không cấp vũ khí hạng nặng cho Ukraine là “không thể hiểu được". Theo ông Melnyk, Đức có khoảng 400 xe Marder, trong đó có khoảng 100 chiếc được sử dụng để huấn luyện, nên chúng vẫn có thể được bàn giao cho Ukraine ngay lập tức.
Trong khi đó, cựu tướng NATO Hans-Lothar Domröse đã bác bỏ những tuyên bố cần phải đào tạo chuyên sâu để sử dụng thành thạo Marder. "Những người biết sử dụng mẫu BMP-1 của Liên Xô có thể tự làm quen với Marder trong vòng chưa đầy một tuần", ông nói.
Khó duy trì giải pháp thay thế
Thủ tướng Scholz cho biết, Berlin đang giải ngân hơn 1 tỷ Euro để giúp Ukraine mua thiết bị quân sự từ Đức. Ông liệt kê các loại vũ khí chống tăng, thiết bị phòng không và đạn dược làm ví dụ, nhưng không đề cập đến các loại xe tăng và máy bay mà Kiev đang yêu cầu.
Tờ Bild từng đưa tin, các công ty quốc phòng Đức ban đầu đề nghị cung cấp vũ khí hạng nặng như xe Marder, xe bọc thép Boxer, xe tăng Leopard 2 và cả pháo tự hành. Tuy nhiên, những mặt hàng này sau đó dường như đã bị gạch tên.
"Có một số vũ khí hạng nặng trong danh sách, nhưng chắc chắn không phải là xe tăng. Vì vậy, xe tăng dường như là lằn ranh đỏ đối với chính phủ Đức ngay lúc này”, giáo sư Carlo Masala nói.
Dù vậy, Berlin vẫn tìm cách “đi đường vòng” khi cố gắng thuyết phục các nước đồng minh cung cấp vũ khí từ thời Liên Xô cho Ukraine, để đổi lấy các khí tài hiện tại hơn của Đức. Chẳng hạn, nước này đang vận động Slovenia gửi một số xe tăng chiến đấu T-72 từ thời Liên Xô đến Ukraine, và bù lại Slovenia sẽ tiếp nhận các xe Marder do Đức sản xuất.
Tuy nhiên, ông Masala nhận định phương thức này sẽ không duy trì được lâu, do số vũ khí trên sẽ sớm bị phá hủy trong giao tranh, và Ukraine sẽ lại lâm vào cảnh cạn kiệt vũ khí hạng nặng. “Đến một thời điểm nào đó, câu hỏi liệu có nên đào tạo và chuyển giao các hệ thống vũ khí hiện đại của phương Tây cho Ukraine hay không sẽ quay trở lại", vị giáo sư cho biết.
Việt Anh
" alt=""/>Lý do Đức dè dặt trong việc chuyển vũ khí hạng nặng cho Ukraine